Chương XII : Matsushita Konosuke  Kinh doanh kiểu Nhật và triết lý kinh doanh

Chương XII : Matsushita Konosuke 

Kinh doanh kiểu Nhật và triết lý kinh doanh

Doanh gia trở thành anh hùng dân tộc

Người cuối cùng được chọn trong “Mười hai người lập ra nước Nhật,” là Matsushita Konosuke.

Matsushita Konosuke bắt đầu cuộc đời là một người lao động, đã gây dựng nên một xí nghiệp có tầm cỡ thế giới, đồng thời trong thập niên 1960, là một triết gia có tư tưởng kinh doanh và quan niệm về lao động độc đáo, đã để lại ảnh hưởng lớn cho Nhật Bản ngày nay.

Ðiểm đặc sắc nhất của Matsushita là, không giống những nhà giầu khác hay những nhà kinh doanh dựng nghiệp khác, ông đã trở thành anh hùng dân tộc trong quá trình Nhật Bản tiến tới một đại cường quốc kinh tế. Với ý nghĩa này, ông là người đã để lại ngày nay những ảnh hưởng tuyệt đại, cả ảnh hưởng hữu hình cũng như ảnh hưởng vô hình.

Trong biết bao nhiêu phú hào và doanh gia khởi nghiệp, tại sao chỉ có Matsushita Konosuke được kể là anh hùng dân tộc?

Năm 1955, trong bảng thứ bậc nhà giầu (người đóng thuế nhiều nhất) do tổng cục thuế công bố, lần đầu tiên Matsushita Konosuke đã đứng đầu bảng. Tin này đã gây một xúc động mãnh liệt trong toàn dân Nhật Bản.

Bảng thứ bậc nhà giầu được công bố hàng năm đã có từ lâu rồi. Song trước đó, những nhà giầu nhất nước đều là nhưng người làm nghề than đá, tức là ngành nghề được Nhà nước ưu đãi, hay những nhà giầu xổi kinh doanh bất động sản được trúng mẻ.

Nhưng, Matsushita Konosuke là người cần cù khắc khổ từ thuở thiếu thời, nhờ nỗ lực và sáng kiến của riêng mình, đã tích lũy gây dựng nên Công ty Matsushita Denki Sangyo cùng những công ty liên hệ, phát triển kinh doanh mà chèo lên tới địa vị số một trong Bảng thứ bậc nhà giầu như vậy, nên ấn tượng mới mãnh liệt. Thời đó là lúc mỗi thứ đều thiếu thốn, người dân thường sống trong bầu không khí chán nản, nhưng tin Matsushita trở thành người giầu nhất nước, đã làm họ phấn khởi. Họ nghĩ nếu mình cố gắng thì mình cũng có thể trở nên giầu có như vậy được. Matsushita quả đã là một anh hùng mang lại niềm hi vọng cho quốc dân Nhật Bản trong thời kỳ phục hưng sau chiến tranh.

Matsushita Konosuke đã trở thành hiện thân của “giấc mơ Nhật Bản,” cái đích cho mỗi người khao khát. Chính vì vậy mà lời nói của ông đã có ảnh hưởng lớn của một triết nhân.

Gặp gỡ điện khí

Matsushita Konosuke sinh ngày 27-11-1894 (niên hiệu Minh Trị thứ 27), tại thị trấn Wakayama (thời đó còn gọi là thôn Wasa, quận Umigusa). Gia đình nghèo, năm chín tuổi Konosuke phải đi ở đợ. Ðầu tiên, Konosuke ở cho một nhà hàng bán lò than. Năm sau, chuyển sang một cửa hàng bán xe đạp, Konosuke lại làm đứa ở gần 6 năm nữa nghĩa là từ tuổi lên mười cho đến tuổi hơn 15, Konosuke đã sống với xe đạp.

Năm 1910, Matsushita Konosuke trở thành thợ học nghề của công ty Osaka Dento (nay là công ty Ðiện lực Osaka). Ðây là buổi hội ngộ giữa Matsushita Konosuke với điện khí.

Matsushita tiếp tục cuộc đời thợ điện ở công ty này cho tới năm 1917 (niên hiệu Taisho thứ sáu) tức là giữa thời Chiến tranh thế giới thứ nhất, thì xin thôi, tách ra độc lập, và phát minh ra kiểu đui (chân cắm) hai bóng đèn. Năm sau, ông sáng lập ra công ty kinh doanh cá nhân Mastsushita Denki Kigu Seisakusho. Lúc đầu, sản phẩm chỉ có phích cắm điện, đui chĩa hai, tức là đui hai bóng đèn nói trên. Dùng loại đui này thì chỉ một dây đèn có thể nối ra thành mấy ngọn đèn cũng được. Thời đó, giá tiền điện ở Nhật Bản còn tính khoán và mỗi nhà chỉ được kéo một đường dây đèn thôi. Nếu dùng đui đèn chĩa hai, có thể kéo thêm nhiều ngọn đèn khác, nên phụ kiện này bán khá chạy.

Sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất, tình hình làm ăn trở nên khó khăn. Rồi năm 1923, sau trận động đất lớn vùng Kanto, ông đã dùng kinh nghiệm với xe đạp chế ra đèn điện cho xe đạp. Sản phẩm này bán rất chạy. Rồi năm 1926, lần đầu tiên ông đã bán ra loại đèn pin với pha đèn hình vuông có gắn nhãn hiệu National. Sản phẩm này bán chạy như tôm tươi. Thời đó, ông đã yêu cầu công ty pin đèn hợp tác nên đã có thể phát không 10 ngàn chiếc đèn pin như vậy để quảng bá. Sản phẩm này còn bán chạy cho tới sau cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai.

Năm 1929, ông đổi tên công ty thành Matsushita Denki Seisakusho. Hai năm sau, ông được dịp nhẩy vọt như sau.

Năm 1931, Ðài Phát thanh Tokyo (nay là Hãngi Truyền thông Nhật Bản NHK) đã mở kỳ thi kiểu radio tiêu chuẩn với mục đích phổ cập radio giá hạ, vì thời đó radio hãy còn hiếm và giá đắt. Sản phẩm của công ty Matsushita Denki Seisakusho đã đoạt giải nhất. Công ty bèn sản xuất đại trà kiểu radio này, đặt tên là “Kiểu trúng giải.”

Từ thời điểm này, hoạt động kinh doanh mỗi ngày một lớn ra, công ty Matsushita Denki Seisakusho lần lần chiếm được địa vị một công ty chế tạo đồ điện tổng hợp. Ngay từ năm 1933, công ty đã áp dụng đường lối kinh doanh theo chế độ bộ môn. Mỗi bộ môn đều có quyết toán độc lập. Thể chế này được duy trì cho tới ngày nay.

Năm 1935, sau khi pháp nhân hóa tổ chức và đổi tên là Công ty Cổ phần Matsushita Sangyo, Matsushita Konosuke liền nhậm chức tổng giám đốc, tiếp tục sản xuất radio và bóng đèn cùng những sản phẩm điện khác nữa.

Thế rồi cuộc Chiến tranh Thái bình dương nổ ra, công ty ông chế tạo quân nhu như máy vô tuyến điện, máy radar, rồi cả máy bay nữa. Vì thế, sau khi Nhật Bản thua trận, ông bị bộ Tổng tư lệnh Quân đội chiếm đóng Nhật Bản liệt vào hàng tài phiệt, và bị thanh trừng khỏi các chức vụ công cộng. Sự kiện ông đã bị liệt vào hàng tài phiệt ngay sau chiến tranh, đủ cho thấy công ty ông đã thành một đại xí nghiệp rồi. Lúc đó Matsushita Konosuke 50 tuổi.

Năm 1947, nhờ sự đấu tranh phản đối của công đoàn Matsushita, ông được xóa tên khỏi danh sách tài phiệt và được phục quyền trở về làm kinh doanh. Tuy nhiên, những sự kiện vừa xảy ra, chiến tranh rồi bị thanh trừng, là những điều khó quên đối với ông.

Sự phổ cập “đường lối kinh doanh Matsushita” qua mạng lưới bán hàng vững chắc

Ðược phục quyền trở lại làm tổng giám đốc, Matsushita Konosuke đã hăng say khuếch trương kinh doanh làm cho Công ty Matsushita Denki Sangyo ngày một lớn hơn. Kết quả là năm 1955, ông đã trở thành người giầu nhất Nhật Bản, như kể trên. Ðây là cái giầu tính bằng phần chia lời cổ phiếu, chứ không phải là cái giầu nhất thời như doanh thu hay do bán tư sản. Vì thế, sau đó, ông còn nhiều lần đứng đầu bảng những người giầu nhất Nhật Bản.

Sau chiến tranh, năm 1949, Thị trường cổ phiếu Nhật Bản đã hoạt động trở lại. Năm đó nếu mua cổ phiếu Matsushita Denki Sangyo với giá 100 ngàn Yen, rồi từ đó cứ tiếp tục dùng tiền được chia lời cổ phiếu đóng thêm mỗi khi có tăng vốn, thì tới năm kinh tế bong bóng 1989, trị giá cổ phiếu đó đã lên tới 2,4 tỉ Yen. Nghĩa là trong 40 năm, giá cổ phiếu của Matsushita Denki Sangyo đã tăng gấp 24 ngàn lần.

Ðương nhiên, là người sáng lập đồng thời là cổ đông lớn của công ty, Matsushita Konosuke đã giầu to. Số cổ phiếu của ông không nhiều lắm vì công ty đã bán công khai cổ phiếu từ rất sớm. Vì thế, ngoài ông ra, còn nhiều người khác đã có cơ hội làm giầu. Trên thực tế, phải có hàng mấy chục người như vậy.

Từ năm 1955, tức là năm đầu tiên Matsushita Konosuke trở thành người giầu nhất Nhật Bản, người ta đã thấy có rất nhiều sản phẩm điện gia dụng. Rồi tới thời đại “ba bửu bối” tức là máy TV, máy giặt và máy lạnh. Công ty Matsushita Denki Sangyo đã thừa cơ có phòng trào điện hóa gia đình này phát triển không ngừng. Công ty đã chế ra hết sản phẩm này tới sản phẩm khác, sản xuất đại trà, bán thật nhiều. Rồi công ty mở rộng mạng lưới bán ra nước ngoài khiến nhãn hiệu Panasonic được nổi tiếng khắp thế giới.

Một đặc điểm nữa của công ty Matsushita Denki Sangyo là từ năm 1949, công ty đã lập ra một mạng lưới bán sản phẩm chằng chịt trên khắp Nhật Bản. Bằng mạng lưới này, công ty đã có một hệ thống bán hàng hùng mạnh đồng thời phổ cập ra khắp Nhật Bản triết lý kinh doanh Matsushita.

Ở Nhật Bản, Matsushita Konosuke được người ta ngưỡng mộ như là “ông thánh kinh doanh.” Thật ra, tài kinh doanh của ông được như vậy cũng là nhờ có mạng lưới kinh doanh trên. Chính Matsushita Konosuke và những nhân vật khác của nhóm Matsushita đã đích thân chỉ dẫn các tiệm bán trong mạng lưới khiến cho những tiệm bán cũng rất thỏa mãn.

Năm 1961, Matsushita Konosuke trở thành chủ tịch công ty, năm 1973, là Cố vấn, nghĩa là trên bề mặt, ông không còn giữ vai trò trục tiếp lãnh đạo công ty nữa, mà chỉ đưa ra những quan điểm vĩ mô cho công ty thôi. Thế nhưng, trên thực chất, ông vẫn là người có ảnh hưởng tuyệt đại đối với công ty.

Ngoài sự nghiệp kinh doanh như kể trên, Matsushita còn có nhiều đóng góp về mặt tư tưởng. Năm 1946, tức là chẳng bao lâu sau khi chiến tranh kết thúc, ông đã lập ra “Viện Nghiên cứu PHP” với mục đích phát động phong trào “Hòa bình và Hạnh phúc trong Phồn thịnh (Peace and Happiness through Prosperity).”

Rồi năm 1979, mặc dầu đã tới tuổi 85, ông còn quyết chí đào tạo nhân tài để cải cách nền chính trị Nhật Bản. Ông bỏ tiền riêng ra mở “Trường Kinh tế chính trị Matsushita” rồi tự mình đứng ra làm chủ tịch hội đồng quản trị và hiệu trưởng. Số người tốt nghiệp trường này trở thành nghị sĩ quốc hội cũng có tới vài chục người.

Matsushita Konosuke đã sống những năm cuối đời như một triết nhân, người đề xướng cải cách, rồi ngày 17-4-1989, ông đã kết thúc cuộc đời ở tuổi 94.

Tuổi thọ cũng là một yếu tố đóng góp vào sự nghiệp của con người. Bởi vì, có sống lâu mới làm được nhiều việc. Vào lúc cuối đời, với tầm nhìn xa trông rộng của mình, Matsushita đã đóng góp những ý kiến về tương lai Nhật Bản và được nhiều người hưởng ứng. Nói cách khác, cho tới chết, ảnh hưởng của ông đối với xã hội Nhật Bản vẫn không hề bị suy giảm.

Tại sao trở thành anh hùng dân tộc được?

Khi luận về Matsushita Konosuke, điểm đáng nói nhất là từ một doanh gia ông đã trở thành anh hùng dân tộc vĩ đại nhất thời hậu chiến của Nhật Bản. Một nhà kinh doanh như ông có lẽ còn lâu mới lại xuất hiện.

Tại sao như vậy? Ta thử tìm hiểu qua thân thế, tư tưởng, hành động của ông xem sao. Như vậy, ta có thể thấy nhân vật này có ảnh hưởng thế nào đối với người Nhật thời nay, sẽ còn có ảnh hưởng gì tới người Nhật của thế kỷ XXI.

Ðiểm thứ nhất làm cho Matsushita Konosuke trở thành anh hùng dân tộc là truyện lập thân thành đạt của ông.

Nhà nghèo phải bỏ ngang trường tiểu học để đi ở đợ, rồi sau xây dựng nên một xí nghiệp khổng lồ, ông thật đáng gọi là “Thái tể đời nay[1].”

Sinh ra ở một vùng quê nghèo nàn đến nỗi năm lên 9 tuổi phải bỏ ngang trường tiểu học đi ở đợ. Học lịch của ông như vậy là “bỏ ngang bậc tiểu học.” Vậy mà ông đã gây dựng nên một đại xí nghiệp có tầm cỡ lớn nhất Nhật Bản, có hoạt động trên khắp thế giới. Truyện thành công như vậy đáng so sánh với truyện Thái tể Hideyoshi. Ðiều này ai cũng mơ ước đạt được và vì vậy đã trở thành yếu tố khiến Matsushita Konosuke trở thành anh hùng dân tộc của Nhật Bản.

Thêm nữa, thời nhỏ Matsushita yếu ớt cũng là điểm khiến người ta có cảm tình. Thật vậy, ông nhỏ con, gầy gò, chứ không có thân hình cứng cáp. Lại hay bệnh tật, tức là không được may mắn về mặt thể lực. Ðiểm này ông cũng giống như Hideyoshi.

Hideyoshi cũng thua kém người ta về mặt thể lực. Thời Chiến quốc, phải có thể lực mạnh mới trở thành hào kiệt được, nhưng Hideyoshi lại bé nhỏ, gầy yếu.

Cùng xuất thân nghèo nàn, cùng có thể lực yếu đuối, nhưng hai người đã thành công lớn trong thiên hạ. Với ý nghĩa đó, Matsushita Konosuke và Toyotomi Hideyoshi có nhiều điểm tương đồng. Ðiều này khiến cho mỗi người có cảm tình, và khi thành công rồi cũng thấy ít người ganh tị, ghen ghét. Nếu ông là con nhà giầu, tốt nghiệp trường đại học hạng nhất, rồi lại có thể hình đường đường một đấng nam nhi, thì có lẽ ông đã không được người ta coi là anh hùng dân tộc đâu.

Ðiểm thứ hai là con đường tới thành công của ông thật là trong sáng.

Từ phát minh ra đui đèn chĩa hai, đèn xe đạp, tới chế tạo ra radio “Kiểu trúng giải,” rồi sau chiến tranh thì sản xuất “ba bảo bối” máy thu hình trắng đen, máy giặt và tủ lạnh, tất cả đều là những sản phẩm gia dụng gần gũi. Vì thế, ông được coi là người cải cách cuộc sống của người tiêu dùng.

Xưa nay, những người thành công trở thành tỷ phú có ít người là nhà cải cách mà phần lớn bị coi là đã dùng mánh lới buôn bán hoặc thủ đoạn chính trị bóc lột quốc dân đại chúng để tích lũy tài sản.

Chẳng hạn, người lập ra nhóm tài phiệt Mitsubishi, Iwasaki Yataro, quả là người tài. Thế nhưng, sự khởi nghiệp của ông là lập ra một công ty vận tải đường biển được chính phủ che chở. Rồi, nhờ có cuộc chiến tranh Tây Nam, ông chuyên chở lương thực quân nhu mà được lời to. Sau đó, “nhúng tay” vào than đá, ông cũng được cung cấp cho quân đội hay cơ quan nhà nước nên cũng lời lớn. Nghĩa là, có nhiều chi tiết về ông phải nói, song dù sao người đời cũng có ấn tượng rằng ông đã giầu to nhờ làm ăn với chính phủ.

Sau chiến tranh, còn nhiều doanh gia khác trở nên giầu sụ như Matsushita Konosuke. Nhưng phần đông những người đó đều nhờ trúng mánh về bất động sản, đường sắt hay than đá, nghĩa là dựa vào sự che chở của chính phủ, hoặc kinh doanh liều mạng, hoặc bám dính vào giới chính trị, nên nhiều khi bị nghi ngờ có sự mờ ám ở đằng sau lưng.

So với họ, Matsushita Konosuke chủ yếu phổ cập đồ điện gia dụng, nên được hâm mộ vì gần gũi với quốc dân hơn. Mỗi người cảm thấy cuộc sống được tiện nghi hơn nhờ sản phẩm mang nhãn hiệu National. Với hình ảnh một người cải cách về cả hai mặt, kỹ thuật và kinh doanh, Matsushita đã có những sáng kiến hay và dám mạnh bạo thực hiện những sáng kiến đó, vừa làm cho mỗi người được thoải mái đồng thời chính mình được giầu có. Người đời có ấn tượng tốt về ông là như vậy.

Khởi đầu kiểu “Kinh doanh Nhật Bản” với hình thức làm công suốt đời

Thứ ba là đã xây dựng nên kiểu Kinh doanh Nhật Bản thời hậu chiến.

Matsushita Konosuke là người đầu tiên có nhiều sáng kiến mới ở Nhật Bản. Trong những cái như vậy, sáng kiến dùng người suốt đời ông đưa ra trong những năm đại khủng hoảng kinh tế đầu thời Showa (tức là cuộc đại khủng hoảng kinh tế thế giới hồi năm 1930). Hình thức thuê người suốt đời như vậy về sau đã lan rộng ra khắp nước Nhật và trong thời hậu chiến đã được gọi là kiểu Kinh doanh Nhật Bản.

Thật ra, tập tục thuê người làm suốt đời ở Nhật Bản trước kia đã bị hiểu lầm là kiểu Kinh doanh Nhật Bản, chứ thật ra không phải vậy.

Thuê người làm suốt đời là tập tục có từ xưa của Nhật Bản.

Nhưng, trước đây đã có người thuyết giải như sau:

Thời Tokugawa, khi một đứa trẻ vào làm công cho một thương gia, nó bắt đầu bằng “thằng nhỏ,” rồi “thằng nhỡ,” cuối cùng là “quản gia” và được “chia màn cửa[2].” Truyền thống này ngày nay được kế tục bằng hình thức thuê người suốt đời và thay cho sự “chia màn cửa” là khoản “tiền thôi việc[3].”

Hoàn toàn sai. Việc chủ nhà “chia màn cửa” cho người làm thời Tokugawa là truyện bịa đặt sau thời chiến tranh. Ngay trong thời làm ăn thịnh vượng Genroku, thì năm người hay mười người mới có một người làm tới “quản gia.” Rồi trong đám “quản gia” như vậy cũng phải mấy người mới có một người được “chia màn cửa.” Sang thời Kyoho, nếu không vào ở rể, thì đừng hi vọng được “chia màn cửa.”

Sang đến thời Taisho và Showa (tức là trước cuộc chiến tranh thế giới I tới đầu cuộc chiến tranh thế giới II), “tỷ lệ đổi ngang lao động” ở Nhật Bản cao nhất thế giới. Ðổi ngang lao động là đổi chỗ làm việc theo chiều ngang: tài xế lái xe nơi này lại đổi sang nơi khác cũng lái xe, thợ tiện ở xưởng này lại đổi sang xưởng khác cũng vẫn là thợ tiện. Người ta nói, không có nước nào trên thế giới mà người lao động lại dễ dàng bị sa thải như ở Nhật Bản thời đó. Cho đến năm 1939, cho đến khi “luật nhà máy” được sửa đổi, không có gì ngăn chặn được sự sa thải bừa bãi như vậy. Thậm chí còn có lý luận khẳng định sự sa thải vô tội vạ như vậy, chẳng hạn “lý thuyết về lao động tha phương.”

Công nhân nhà máy Nhật Bản cơ bản là người lao động tha phương. Họ là con trai thứ hay con gái nhà nông. Vì thế, dù có bị sa thải, họ vẫn được cha anh hay bà con cô bác ở quê hương tiếp đón nồng hậu. Họ vẫn có thể trở lại làm nghề nông được, tuy thu nhập giảm đi nhưng không sợ chết đói. Rồi chờ có cơ hội tốt lại ra thành thị làm công nhân hay làm thuê cho nhà buôn.

Quanh đi quẩn lại như vậy từ sau khi tốt nghiệp tiểu học, con gái bắt đầu đi làm từ tuổi 13, 14 cho tới khoảng 20 tuổi, dành dụm tiền mua vật dụng chuẩn bị đi ở riêng, con trai đi làm tới khoảng 40 tuổi, nếu mua được dăm ba sào ruộng bằng tiền dành dụm để quy nông, thì như thế được coi là ăn nên làm ra rồi. Nhật Bản lấy chế độ đại gia tộc làm trật tự công cộng và thuần phong mỹ tục, cho nên người Nhật không câu nệ nơi làm việc. Người lao động không cần phải lập công đoàn đấu tranh phản đối sa thải. Ðó là chỗ đặc sắc của Nhật Bản.

Tóm lại, hầu hết người Nhật đều có nông thôn làm quê quán. Chỉ có một thời gian của đời người, họ đi làm tha phương ở nhà máy hay nhà buôn thôi. Như câu nói “nghề làm công lãnh lương là nghề bèo trôi bập bềnh,” họ không quan niệm gửi gắm toàn thể cuộc đời mình cho nghề đi làm lãnh lương. Họ cũng không nghĩ rằng nơi làm việc có trách nhiệm với toàn thể cuộc đời mình.

Với bối cảnh trên, cuộc đại khủng hoảng kinh tế đã bùng ra vào những năm 1929, 1930. Lúc đó, Matsushita Konosuke đã không sa thải nhân viên. Ông cho làm việc nửa ngày. Ngày nghỉ thì nhân viên cùng nhau đi bán sản phẩm tồn kho. Công ty ông nhờ thế đã vượt qua khỏi tình thế khó khăn. Như vậy, ông đã nghĩ ra và thực thi chính sách xí nghiệp có trách nhiệm đối với đời sống của công nhân.

May thay, như đã kể trên, từ máy radio “Kiểu trúng giải,” doanh thu gia tăng khiến công ty ông không phải lo tới sa thải người nữa. Tuy có may mắn thật, song sáng kiến cố gắng vượt qua khó khăn của ông là độc đáo. Quả là sáng kiến của một người xuất thân lao động, hiểu thấu tâm can của người lao động. Phương thức này sau chiến tranh đã lan rộng ra tất cả các xí nghiệp và trở thành kiểu “Kinh doanh Nhật Bản” vậy.

Kỹ thuật thì Honda, Kinh doanh thì Matsushita

Matsushita Konosuke thường được xếp ngang hàng với Honda So’ichiro như là đại biểu cho những nhà kinh doanh mở nghiệp. Một bên là đồ điện một bên là ôtô, tuy khác nhau, nhưng đều là những sản phẩm đại trà đã phát triển thời hậu chiến cả. Nhưng giữa hai người, có một điểm khác nhau căn bản. Cả hai cùng xuất phát từ cảnh ngộ giống nhau, nhưng phương pháp kinh doanh quản lý của họ khác nhau lắm.

Honda So’ichiro khởi nghiệp từ xe môtô rồi sau mới tiến sang xe ôtô, nghĩa là chỉ đeo đuổi một mục tiêu duy nhất. Ông xuất phát từ một nhà kỹ thuật thuần túy, rồi cũng giã từ cuộc đời với tư cách nhà kỹ thuật thuần túy.

Nghĩa là, Honda So’ichiro say mê xe môtô và xe ôtô nên đã dốc toàn tâm toàn lực vào đó. Nhờ ngành ôtô thành công mà ông đã thành đạt. Chứ nếu ngành ôtô không thành công thì chưa chắc gì Honda đã trở thành một doanh gia vĩ đại.

Trong cuốn sách của mình nhan đề là “Ðắc ý giương buồm lên,” Honda So’ichiro có viết ông đã làm cái đắc ý nhất và đã xả thân ra thực hành điều đó. Trong sinh hoạt cá nhân, Honda cũng ngang nhiên làm những gì ưa thích, không để ý đến con mắt những người xung quanh, như đeo dây xuyến vàng, lái máy bay, v.v.. Về mặt kinh doanh, ông cũng tự biết giới hạn của mình, vì thế, ông đã giao hẳn quyền kế toán và quản lý vốn liếng cho người phó của ông, là Fujisawa Takeo. Làm được như vậy, quả Honda là người xuất chúng, đồng thời không hề che đậy những điểm yếu của mình, điều này cũng chứng tỏ Honda là người giỏi.

Khi từ chức tổng giám đốc, ông nói ông đã gây dựng nên một công ty là theo ý thích của mình nên chủ trương không truyền lại cho con trai, rồi cùng với người phụ tá của mình rút chân khỏi mọi chức vị trong công ty. Ðiều này chứng tỏ ông là người biết mình, một người hạnh phúc đã đặt cả cuộc đời mình cho việc làm ưa thích, một nhân vật sống theo niềm tin của mình.

Ðối lại, Matsushita Konosuke là một doanh gia có quan niệm hài hòa. Từ đui đèn chĩa hai cho tới những sản phẩm điện gia dụng khác, ông đã có rất nhiều phát minh và sáng chế. Người ta nói số bằng phát minh của ông đứng hàng nhất nhì trong giới điện cơ. Thế nhưng bản thân ông không câu nệ vào một lãnh vực sản phẩm nào cả. Thậm chí, ông khéo xây dựng tổ chức và quan hệ người đối người, đến nỗi người ta ví ông là “Kinh doanh thì Matsushita.” Ở điểm này, ông khác hẳn với Honda So’ichiro.

Nói cách khác, Matsushita tuy là một kỹ thuật gia ưu tú, nhưng chính về mặt tổ chức và quan hệ con người, ông đã phát huy tài thiên bẩm còn hơn thế nữa. Vì thế, ông đã xây dựng nên được tư tưởng và hệ thống kinh doanh kiểu Nhật Bản, từ mạng lưới cửa hàng bán lẻ, tới chế độ thuê người suốt đời.

Chế độ thuê người suốt đời mới chính là bước đầu của nền kinh doanh kiểu Nhật Bản. Từ năm 1933, ông đã áp dụng chế độ kinh doanh bộ môn, nghĩa là phân chia doanh nghiệp ra thành nhiều bộ môn một để phân tán quyền hạn. Ðây chính là tạo ra một cơ cấu quyết định theo chủ nghĩa tập đoàn, một đặc điểm vô cùng lớn của nền kinh doanh kiểu Nhật Bản.

Ở nước ngoài, tổng giám đốc là người nắm toàn quyền của công ty. Vì thế, quyết định được mau lẹ và trách nhiệm được minh bạch. Công ty Matsushita Denki Sangyo cũng thế, Matsushita Konosuke là người khởi nghiệp, lại được coi là “ông thánh kinh doanh,” thì hẳn ông có quyền tuyệt đối. Nếu giữ nguyên tổ chức như vậy, ông hẳn sẽ trở thành độc tài. Ðể tránh điều đó, Matsushita Konosuke đã tìm cách phân tán quyền hạn bằng cách áp dụng chế độ kinh doanh bộ môn. Làm như vậy cũng chẳng lu mờ cái tính thần thánh của cá nhân ông đi mà lại phân tán được quyền hạn trong tổ chức. Thật ra, có thể nói chính vì ông biết rằng ông vẫn có thể có quyết định tối chung được, nên mới dám áp dụng chế độ kinh doanh bộ môn như vậy. Nói cách khác, ông đã khéo kết hợp sự phân chia quyền hạn với sự tập trung quyền uy.

Công bố và thực thi phong trào PHP

Lý do thứ tư khiến Matsushita trở thành anh hùng dân tộc được, là ông còn là nhà triết học thuyết giảng khái niệm kinh doanh nữa.

Như đã nói, chẳng bao lâu sau chiến tranh, ông đã có sáng kiến và phát động phong trào PHP. Làm được như vậy là vì ông có tự tin vào thành công trong việc chế tạo ra nhiều sản phẩm làm cho đời sống người dân tiện nghi hơn, đồng thời nâng cao thu nhập của người làm công và tạo ra sự phồn vinh cho các cửa hàng đại lý.

Sản xuất thật nhiều đồ điện gia dụng tiện lợi, rồi bán ra với giá rẻ, sẽ làm cho nền kinh tế phát triển, làm cho công ty chế tạo có lời, nhân viên được lương bổng cao, cửa hàng đại lý kinh doanh vững bền với hợp đồng làm ăn lâu dài với nhà sản xuất. Nghĩa là như vậy có thể trông nom được toàn diện mọi mặt. Matsushita đã ngay từ sớm xây dựng mạng lưới như vậy rồi.

Với thành tựu như trên, Matsushita Konosuke nghĩ rằng con người ta nếu làm ăn cần cù sẽ được sung sướng. Vậy ở thời buổi ngày nay, người ta nên nhờ sự phồn thịnh kinh tế mà ổn định cuộc sống hòa bình và hạnh phúc. Ðây là phản đề đối với tư tưởng quân phiệt đã gây ra chiến tranh, đã tìm cách xây dựng vùng Ðại Ðông Á Cộng Vinh Quyển[4].

Tư tưởng khuyến khích sự cần cù của Matsushita Konosuke có chỗ tương đồng với Ishida Baigan nói ở Chương VII. Có thể nói đó là tư tưởng “triết học cần cù” của thế kỷ XX. Song, khác với Baigan, ông không thuyết giảng sự tiết kiệm. Ðối với ông, việc sử dụng những sản phẩm văn minh như đồ điện gia dụng, là tốt. Nhờ dùng những sản phẩm như vậy mà công việc lao động giảm đi, các bà nội trợ có thêm thời giờ nhàn rỗi, thì đó là điều hay.

Năm 1946, khi Matsushita lập ra Viện Nghiên cứu PHP với mục đích chính là để quảng bá tư tưởng của ông, hơn là bắt tay vào công tác văn hóa xí nghiệp. Thời ấy, ở Nhật Bản chưa có khái niệm hoàn trả lại xã hội một phần lợi nhuận đã thâu được từ xã hội. Ông đã lập ra Viện Nghiên cứu PHP vào lúc mỗi người sống trong sự bất an của thời kỳ bị chiếm đóng. Bản thân Matsushita bị hạn chế đủ thứ bởi những luật lệnh mới về dân chủ và về kinh tế. Ông không nghèo nhưng cũng không lấy gì làm giầu. Tương lai thì u ám không có triển vọng tốt đẹp. Chưa kể, không chừng ông có thể bị tống giam lúc nào chưa biết.

Trước nhất, ông đã bỏ tiền riêng ra để truyền bá “triết học Matsushita”. Nhiều người khuyên ông nên tổ chức thành Hội công ích để được lợi về mặt thuế khóa, nhưng ông đã không làm như vậy. Ông giữ nguyên hình thức công ty cổ phần. Có lẽ ông muốn tách rời hẳn vấn đề văn hóa xí nghiệp ra với những vấn đề văn hóa khác.

Viện nghiên cứu PHP, với mục đích quảng bá tư tưởng của Matsushita Konosuke, hướng dẫn quần chúng về mặt tư tưởng, nay đã trở thành một cơ quan xuất bản và tu nghiệp quy mô, truyền bá một loại tư tưởng mới đáng gọi là “văn hóa PHP.” Viện nghiên cứu này chủ trương kinh tế tự do và chủ nghĩa dân chủ. Còn hơn thế nữa, hoạt động của viện đã chỉ nhờ vào sự kinh doanh cá nhân của Matsushita Konosuke. Ông quan niệm:

“Tiền hoạt động của mình do mình tự kiếm ra, như thế hoạt động mới phát triển và kéo dài vĩnh viễn được. Làm việc gì có ích cho đời, tự nhiên sẽ có tiền.”

Thật là một ý thức tự giác kinh doanh mãnh liệt. Cho nên, sự kiện Viện Nghiên cứu PHP đã được tổ chức thành một công ty cổ phần, và hoạt động sao cho có lời, là triết lý độc đáo của chính Matsushita.

Qua những bài luận thuyết trên tạp chí cơ quan của Viện Nghiên cứu PHP và những tác phẩm khác, Matsushita đã liên tục biểu đạt tư tưởng của mình.

Ví dụ, xí nghiệp phải có nguồn vốn nội bộ như nước chứa trong đập, lúc tháo ra lúc đổ vào, chứ không nên làm ăn kiểu gạo ăn đong từng bữa. Ông triển khai lý luận về “kinh doanh kiểu đập nước,” trong đó ông khẳng định quyền ưu tiên cho việc bảo lưu vốn nội bộ, và kết luận rằng giới kinh doanh Nhật Bản nên làm như vậy.

Lý luận trên của ông như vậy là ngược hẳn với tinh thần chủ nghĩa tư bản Âu – Mỹ, theo đó xí nghiệp chỉ là hình tức trá hình, lợi nhuận của xí nghiệp phải được chia đều cho cổ đông. Nhưng, lý luận của ông đã được người Nhật tiếp nhận và sự chia phần lời thấp cho cổ đông đã trở thành thông lệ ở Nhật Bản. Thậm chí, lời nói của ông khẳng định lợi nhuận thích đáng, như gọi đó là “phần thưởng” của người tiêu dùng, cũng đã được mỗi người đồng tình.

Xí nghiệp nhờ có lợi nhuận mới đứng vững được. Ðồng thời, giảm giá thành sản phẩm xuống, sản xuất đại trà để cung cấp được thật nhiều. Như vậy ổn định được sự sử dụng lao động, xúc tiến được sự tiêu dùng, và kết quả là mỗi người đều sung sướng cả. Ðó là “triết học tăng trưởng” của Matsushita.

Với niềm tin đối với chủ trương xí nghiệp phải có lời như vậy, Matsushita Konosuke cuối cùng đã trở thành người đề xuất cải cách chính trị ở tuổi quá 90. Trong những năm cuối đời, ông nói không ra tiếng nữa, người thường nghe không được, phải nhờ người thư ký riêng quen nghe tiếng nói của ông diễn đạt lại mới hiểu, nhưng sự nhiệt tâm của ông muốn làm cho Nhật Bản trở nên tốt hơn nữa, vẫn không hề suy giảm.

Trong những cải cách chính trị của ông, có những đề nghị như đại cải cách toàn quốc, bỏ hẳn mỗi thứ thuế, nghĩa là biến Nhật Bản thành một quốc gia không có thuế.

Matsushita đã chỉ dẫn thành công cho nhiều nhà kinh doanh cửa hàng đại lý, rồi nhiều nhà kinh doanh xí nghiệp. Sau cùng, ông cảm thấy cần phải đào tạo thêm nhiều nhân tài để cải cách Nhật Bản. Cho nên, ông đã lập ra trường “kinh tế chính trị Matsushita.” Rồi ông lại tổ chức “Hội tọa đàm Kyoto,” tự mình làm chủ tọa và tiếp tục tham gia cho tới 90 tuổi, chịu khó lắng nghe ý kiến của những học giả.

Xúc tiến chí hướng lập thân xử thế

Người Nhật ngày nay đã chịu ảnh hưởng gì, đã tiếp thu ý thức gì của Matsushita Konosuke?

Trước nhất, đó là tư tưởng về “nghề buôn bán là nghề bán hạnh phúc.”

Xưa nay, người ta quan niệm rằng nghề buôn bán chỉ có mục đích ích kỷ là làm giầu. Hơn nữa, phần lớn người ta đều cho làm rằng lao động là cực nhọc, mà chỉ có tiêu tiền kiếm được sau khi lao động cực nhọc, mới là sung sướng.

Matsushita Konosuke đã thoát ra khỏi cái quan niệm đó, ông coi nghề buôn bán là nghề làm cho thiên hạ được sung sướng. Do đó, làm việc là thú vui, xí nghiệp là nơi có lẽ sống. Xí nghiệp là một cộng đồng sinh hoạt, từ đó chế tạo rồi bán ra sản phẩm làm cho đời sống gia đình tiện nghi, và như thế làm cho thế gian trở nên hạnh phúc. Với ông, bản chất của nghề buôn bán là đem lại hạnh phúc trước nhất cho nhân viên xí nghiệp, rồi cho gia đình người tiêu dùng và rốt cục cho toàn thế gian. Như vậy, ông đã đưa ra khái niệm mới coi “nghề buôn bán là nghề bán hạnh phúc” và suốt đời đã không ngừng cống hiến cho mục đích này.

Sự mỹ hóa nghề buôn bán, tư tưởng cộng đồng hóa xí nghiệp, đòi hỏi lòng ham muốn lao động và lòng trung thành của nhân viên với xí nghiệp, đều là sự “tán dương con người xí nghiệp.”

Xem như trên, ta thấy Matsushita Konosuke đã làm thành một đôi tương xứng với Ikeda Hayato. Cái mà Ikeda Hayato nghĩ về mặt chính trị, thì Matsushita thực hành về mặt kinh doanh. Nhờ hai bánh xe chính trị và kinh doanh như vậy mới tạo ra nước Nhật tăng trưởng trong thời hậu chiến được.

Thứ hai, ông đã cổ súy cho triết lý lập thân xử thế.

Với hai bàn tay trắng dựng nên nghiệp lớn, Matsushita đã cưu mang hàng mấy chục ngàn người làm, làm giầu cho bao nhiêu cổ đông, mang lại tiện nghi hạnh phúc cho biết bao nhiêu gia đình trên toàn quốc Nhật Bản. Nhìn vào cái hình ảnh đó, nhiều người Nhật khác cũng đã ôm ấp một giấc mơ tương tự.

Thời hậu chiến, tỷ lệ học sinh trung học tiến lên bậc đại học, đã tăng lên gấp mấy lần so với thời tiền chiến. Sự thi đậu vào trường đại học trở nên khó khăn. Vì thế, ai nấy đều không lấy làm hổ thẹn khi nêu cao mục tiêu: đậu vào trường đại học hạng nhất, đỗ đạt rồi đi làm cho xí nghiệp hạng nhất.

Bản thân mình học đại học hạng nhất, con cái cũng cho vào đại học hạng nhất. Ðể được như vậy, từ bậc tiểu học đã đi học thêm, nào lớp tư thục, rồi lớp luyện thi. Ðậu đại học rồi, thì chen chân vào xí nghiệp có khả năng phát triển, mau chóng tiến thân đừng để chậm hơn người khác. Ðể được như vậy, thì làm thêm giờ hay làm cả ngày nghỉ cũng không quản ngại. Rồi mau mau mua nhà, con trai cũng lại cho vào đại học hạng nhất. Ngày nay nỗ lực của người ta, là để đạt được mục tiêu ấy. Sự nỗ lực không mệt mỏi, cái chủ nghĩa hướng tới tương lai, hướng tới thành công trong xử thế ấy, đã đóng vai trò to lớn là làm cho nền kinh tế Nhật Bản tăng trưởng.

Giấc mộng lập thân xử thế như trên đã ăn sâu vào lòng người Nhật thời hậu chiến. Nhưng, khôi hài thay, truyền bá giấc mộng ấy lại là Matsushita Konosuke, một người ít học chính quy nhưng đã thành công.

Thời Minh Trị, giấc mộng của người ta là “Sau này làm nên đại tướng hay đại thần (bộ trưởng).” Nhưng thực tế là có rất ít người đạt được như vậy. Phần đông người ta đã bỏ giấc mộng đó từ sớm, đã thôi học từ bậc tiểu học.

Thời hậu chiến, thanh thiếu niên Nhật ít người còn ôm những giấc mộng lớn không tưởng nữa. Họ bằng lòng với một giấc mộng nhỏ: đó là tốt nghiệp một đại học hạng nhất rồi vào làm cho một công ty hạng nhất. Chính vì như vậy, mà đông người có thể cùng có chung một giấc mộng được. Trong đám người như vậy, sự hiện diện của một vị anh hùng ít học như Matsushita Konosuke, đã cho người ta một lời bào chữa kỳ diệu. Họ nói: tụi tôi đeo đuổi giấc mộng cỏn con bằng cách chăm lo học thi, trở thành người xí nghiệp, nhưng quyết không hề coi thường hay miệt thị những người ít học. Hãy coi Matsushita Konosuke, không thấy toàn dân Nhật kính trọng ông đó sao?

Giấc mộng Mỹ (American Dream) là ai cũng có thể thành công lớn, ai cũng có thể trở thành đại phú hào. Ðó là giấc mộng từ ngôi nhà tranh thành tổng thống (Abraham Lincoln) hoặc từ một cái vali hành lý thành đại doanh gia, tức là giấc mộng xuất phát từ những cá nhân thành công.

Giấc mộng Nhật Bản (Japanese Dream) thì khác. Ðó là: học luyện thi, đậu trường đại học kha khá, vào làm công ty kha khá hay cơ quan công quyền để có cuộc sống ổn định, không lo bị sa thải, có tiền tiêu vặt, có nhà riêng. Rồi giá bất động sản tăng lên thì cũng trở nên giầu có vừa vừa. Ðó chính là một giấc mộng xã hội bình thường, mà Matsushita Konosuke ấp ủ với chế độ làm thuê suốt đời và chế độ phân tán quyền hạn của đường lối kinh doanh Nhật Bản thời hậu chiến.

Ðẻ ra “người xí nghiệp” và “xã hội chức lộc”

Như nói trên, thành tựu thứ ba của Matsushita Konosuke là “Kinh doanh kiểu Nhật.” Hình thức kinh doanh này lan rộng ra đã đẻ ra “người xí nghiệp” và “xã hội chức lộc.”

Với thành công ở công ty Matsushita Denki Sangyo, Matsushita Konosuke lý luận rằng mỗi xí nghiệp nên áp dụng đường lối thuê người suốt đời. Trong thời kỳ trước chiến tranh và ngay trong khoảng mười năm sau chiến tranh, hầu hết các nhà kinh doanh khác ở Nhật Bản đều phủ nhận đường lối đó. Họ vẫn tiếp tục đường lối sa thải tùy ý trong kinh doanh. Vì thế, đã xẩy ra nhiều cuộc đấu tranh gay gắt của người lao động, như vụ Shimoyama[5] và vụ Matsukawa[6] của Hệ thống đường sắt quốc doanh, hay những vụ khác như vụ đình công của ngành điện cơ, vụ ngày Lao động đẫm máu, v.v..

Thế rồi, kinh tế Nhật Bản phục hồi nhanh chóng. Năm 1950, cuộc chiến tranh Triều Tiên bùng nổ. Các xí nghiệp Nhật Bản bắt đầu tích cực giữ người làm. Thế rồi từ năm 1955 thì chế độ thuê người suốt đời mới bén rễ. Nghĩa là sự việc đã đúng như “Matsushita Konosuke đã nói.”

Những nước công nghiệp tiến bộ phương Tây như Anh, Ðức, Mỹ, tất cả đều có một thời kỳ kinh tế phát triển mạnh. Ðó là thời kỳ các công nghiệp đại quy mô thành hình, hệ thống lưu thông vật tư và giao thông được hiện đại hóa. Trong quá trình ấy, xã hội địa vực và chế độ gia đình bị băng hoại, thành thị tràn đầy những người “lao động tự do.” Nhưng sự phát sinh ra “người xí nghiệp” và “xã hội chức lộc” như ở Nhật Bản, thì không thấy có ở nước nào khác cả.

Tại sao như vậy? Ðó là vì trong thời kỳ kinh tế tăng trưởng cao độ sau chiến tranh, thanh niên nông thôn đã đổ xô ra thành thị, làm trong các xí nghiệp, ở trọ trong ký túc xá hay chung cư của xí nghiệp. Vì thế, một mặt thì cộng đồng xã hội địa vực ở nông thôn bị “băng hoại”, mặt khác cộng đồng địa vực ở thành thị lại không thành hình. Do đó, đám người lao động từ nông thôn ra thành thị chỉ có nơi làm việc để nương tựa cho nên họ bám chặt lấy xí nghiệp.

Như vậy đó là lý do khách quan làm cho người Nhật thời hậu chiến phát triển thành “người xí nghiệp.” Thêm vào đó, là chủ trương của Matsushita Konosuke cộng đồng hóa xí nghiệp thành nơi làm việc suốt đời. Như vậy đủ làm cho người Nhật có ý thức quy thuộc thân phận vào xí nghiệp. Xí nghiệp cũng lợi dụng ý thức đó cổ võ cho lòng trung thành đối với xí nghiệp.

Xí nghiệp xây ký túc xá cho người làm công từ thôn quê ra. Xí nghiệp chuẩn bị đầy đủ cơ sở an sinh phúc lợi, khuyến khích và tài trợ các hoạt động câu lạc bộ như câu lạc bộ thể thao, câu lạc bộ nghệ thuật cắm hoa, câu lạc bộ giải trí, v.v.. Ðể mua hàng, thì xí nghiệp tổ chức hợp tác xã bán hàng hóa với giá rẻ cho người làm công. Ði du lịch thì ở trọ ngay các cơ sở nghỉ ngơi của xí nghiệp, vừa rẻ vừa tiện lợi. Tóm lại, xí nghiệp làm mọi cách giữ người lại cho mình.

Kinh doanh kiểu Nhật Bản như vậy là do Matsushita Konosuke nghĩ ra và thực hiện trước nhất. Rồi sau khi “thể chế năm ’55” được xác lập thì kiểu kinh doanh như vậy lan rộng ra toàn nước Nhật, và dần dần trở thành “đặc điểm Nhật Bản.”

Kết quả là “người xí nghiệp” không giao thiệp với người ngoài xí nghiệp. Họ trở nên kinh sợ đối với vấn đề chuyển đổi nơi làm việc, vì sợ mất hết bạn đồng nghiệp, mất hết bạn chơi.

Nói một cách tượng trưng, “xã hội chức lộc” do “người xã hội ” tạo thành, là nơi dù gặp khó khăn cũng không sa thải nhân viên, như Matsushita Konosuke đã làm trong thời kỳ đại khủng hoảng kinh tế. Sự kiện Matsushita Konosuke không sa thải người trong hoàn cảnh khó khăn như vậy, ít nhất cũng đã trở thành truyện “thần thoại” có hiệu quả lớn đối với sự xác lập của hình thức kinh doanh Nhật Bản.

Tạo ra ảo tưởng coi doanh gia là “tài giỏi”

Ðiều thứ tư, là sự kiện Matsushita Konosuke một mặt thực hiện hết lý tưởng nọ tới lý tưởng kia của mình, mặt khác đã đề xuất nhiều cải cách, đã phát sinh ra ở Nhật Bản thời hậu chiến một xu hướng coi “doanh gia là tài giỏi.”

Ai ai cũng nhìn nhận Matsushita là một doanh gia vĩ đại. Ông không dừng lại ở vị trí một doanh gia, ông còn đề xuất nhiều cải cách được mỗi người hưởng ứng, lôi kéo sự chú ý của đại chúng.

Thật ra, người như Matsushita Konosuke khó có thể tìm thấy được người thứ hai. Ở bất cứ nước nào, doanh gia là người kinh doanh xí nghiệp sao cho thu được nhiều lợi nhuận. Những doanh gia thành công, đã đem một phần tài sản của mình ra trả lại xã hội bằng cách ủng hộ, tài trợ các loại hình nghệ thuật, giúp làm sạch đẹp thành phố, xây dựng cơ sở từ thiện, thì có rất nhiều.

Thế nhưng, một doanh gia hiện dịch đã có ảnh hưởng xã hội như một triết gia, có tiếng nói làm mỗi người tin nghe, tạo ra trong xã hội lề lối tham khảo ý kiến doanh gia, là điều đặc trưng của xã hội Nhật Bản thời hậu chiến.

Ngày nay, ở Nhật Bản, những ủy ban tư vấn, những hội đồng thẩm nghị, những sự kiện quốc tế đều có một doanh gia đứng làm chủ nhiệm. Ðiều này đã trở thành thông lệ.

Thời trước chiến tranh, doanh gia bị coi là chỉ biết đến lợi riêng chứ ít nghĩ tới công ích. Do đó, những chức chủ tịch ủy ban, hội đồng có tính cách công cộng, không bao giờ tới tay các nhà kinh doanh cả. Trước hết là quý tộc, rồi đến những người có kinh nghiệm lập pháp và hành chính, tức là những người xuất thân từ quan trường rồi trở thành nghị viên thượng viện (viện quý tộc), sau đó là các tướng lĩnh hồi hưu hay các giáo sư đại học.

Ở nước ngoài thì ngay ngày nay vẫn vậy, hàng đầu là dòng dõi vương tộc hay quý tộc, thứ đến là các nhà tôn giáo hay cựu quân nhân, sau đó mới là học giả, trí thức, văn nhân. Những nhà kinh doanh xí nghiệp thường chỉ được tham khảo ý kiến mà thôi.

Ví dụ, năm 1992 Hội chợ quốc tế đã được tổ chức ở Sevilla, tôi (Sakaiya Taichi) giữ nhiệm vụ giám đốc tổ chức gian hàng Nhật Bản. Nhìn qua danh sách ủy viên các nước khác có nhiệm vụ tương đương, thì thấy nào là vương tộc, nào là quý tộc, rồi nhà tôn giáo, cựu quân nhân. Các nước châu Âu nước nào cũng như vậy cả. Hoa Kỳ thì thay cho vương tộc quý tộc là những người thuộc dòng dõi đại phú hào (như Rockefeller, Ford,…) chứ không thấy bóng một nhà kinh doanh nào cả. Các nước khác cũng tương tự.

Ở Nhật Bản sau chiến tranh, những cựu quân nhân thuộc lực lương phòng vệ Nhật Bản ít có khi nào được coi là người có học thức từng trải, trừ những trường hợp vô cùng đặc biệt. Nhà tôn giáo thì không bao giờ được kể đến. Rốt cục chỉ còn doanh nhân và cựu quan chức. Trong số này, doanh nhân thường ngồi ở ghế chóp bu. Ví dụ, Hội đồng thẩm nghị kinh tế, Hội đồng thẩm nghị di chuyển chức năng thủ đô, Ủy ban khắc phục hậu quả động đất Hanshin – Awaji, v.v., tất cả đều có chủ tịch là chủ tịch Keidanren, chủ tịch Kankeiren hay chủ tịch Doyukai (tất cả đều là đoàn thể doanh gia).

Sở dĩ như vậy một phần là quả thật có nhiều nhà kinh doanh tài giỏi, nhưng cũng một phần là vì hình ảnh vị anh hùng dân tộc Matsushita Konosuke quá ấn tượng. Ông không hề giữ một chức vụ công cộng nào cả nhưng ông đã có những lời “phát biểu tốt.” Nhất là những năm cuối đời, ông đã rời xa khỏi vấn đề lợi ích của xí nghiệp mà phát biểu từ quan điểm cao xa, rằng xí nghiệp phát triển là lợi ích chung cho quốc gia dân tộc. Quan điểm này đã thấm sâu vào mỗi tầng lớp xã hội. Kết quả là mỗi người cho rằng các nhà kinh doanh xí nghiệp có con mắt nhìn bao quát thiên hạ.

Sự đánh giá quá cao như vậy một mặt là niềm hạnh phúc cho giới doanh gia, đồng thời mặt khác lại là một gánh nặng cho họ.

Ðã đến lúc vượt qua ảnh hưởng của vĩ nhân

Matsushita Konosuke mất tháng 4 năm 1989, tức là chỉ bốn tháng sau khi niên hiệu Showa chấm dứt. Thật là một nhà kinh doanh tiêu biểu cho sự vinh quang của thời Showa, đã sống và chết với thời đại đó. Có thể nói, ông đã sống một thời đại xứng đáng với một triết gia có chủ trương rằng sự phát triển của xí nghiệp phải gắn liền với hạnh phúc của quốc dân.

Nhưng, những gì Matsushita đã làm, có nhiều cái không còn hợp với thời đại ngày nay nữa. Ðã đến lúc cần có cái gì khác vượt lên trên ảnh hưởng do ông để lại cho thời đại Showa.

Vậy thì lý tưởng và hệ thống do Matsushita đưa ra, ngày nay vấp phải hạn chế nào?

Năm 1930, từ lúc Matsushita bắt đầu sản xuất đại trà kể từ radio “Kiểu trúng giải,” thì chế tạo đại trà sản phẩm quy cách tốt, rồi bán nhiều sẽ làm cho giá hạ xuống và sản phẩm được phổ cập. Ðó là đúng nguyên lý công nghiệp hiện đại. Matsushita đã quan niệm được điều đó một cách hoàn toàn đúng. Phương thức sản xuất đại trà theo quy cách đã tiếp tục được áp dụng trong thời hậu chiến cho đủ mỗi sản phẩm, từ TV, tủ lạnh, thậm chí máy vi tính…

Nhưng gần đây, sự sản xuất đại trà theo quy cách dần dần đã vấp phải hạn chế. Ðó là quan niệm đối với sự chế tạo đồ cứng. Chứ đối với đồ mềm[7] thì sự sản xuất đại trà theo quy cách có giá trị ít, thậm chí có nhiều chỗ không nên làm. Thời đại tin học đòi hỏi đồ mềm hơn là đồ cứng, phẩm chất hơn là số lượng.

Matsushita Konosuke và công ty Matsushita Denki Sangyo là nhà vô địch về sản xuất đại trà theo quy cách, là tượng trưng của thời đại công nghiệp tiên tiến. Nhưng Nhật Bản ngày nay đã vấp phải giới hạn. Nếu chỉ đơn thuần là vấn đề sản xuất đại trà theo quy cách, thì các nước châu Á có nhân công rẻ hơn Nhật Bản, cũng làm được.

Thứ hai là giới hạn của phương pháp kinh doanh kiểu Nhật Bản. Nhất là thể chế thuê người suốt đời khó mà duy trì được trong bối cảnh cạnh tranh quốc tế đang diễn ra khốc liệt. Thể chế thuê người suốt đời chỉ hữu hiệu trong điều kiện kinh tế phát triển mạnh, xí nghiệp liên tục tăng trưởng, dân số gia tăng và sức lao động trẻ có nhiều. Thời đại Showa chính là thời kỳ như vậy cho nên thể chế thuê người suốt đời mới thành công. Tuy nhiên, từ khi bước vào thời đại Heisei (từ năm 1989), số nhân viên cao tuổi có lương lớn tăng lên, và xí nghiệp gặp phải những khó khăn sâu sắc. Ở Nhật, năm 1995 là năm mà tỷ lệ dân số trẻ lên tới tột đỉnh rồi từ đó bắt đầu giảm dần đi. Vì thế, chế độ thuê người suốt đời đã tới giới hạn.

Thứ ba, Matsushita Konosuke đã nêu ra “triết lý cần cù” của thế kỷ XX. Nhưng bây giờ là lúc phải xem xét lại. Thế kỷ XX có nhiều tư tưởng hay ý thức hệ nhưng tựu trung có thể gom thành ba loại. Thứ nhất là “chủ nghĩa cần cù có hiệu suất” mà Henry Ford chủ trương khi chế tạo ôtô, hay Matsushita Konosuke thuyết giảng khi sản xuất đồ điện gia dụng. Tư tưởng đó là làm việc với hiệu suất cao để gia tăng sản xuất, và nhờ đó mỗi người được hạnh phúc. Thứ hai là “chủ nghĩa bình đẳng về kết quả.” Ðây là lý tưởng xã hội chủ nghĩa. Thứ ba là “chủ nghĩa khoái lạc,” chủ trương giải trí vui chơi, làm cho mỗi người vui vẻ, thoải mái, kiểu vua hài Charles Chaplin, kiểu vua phim hoạt hình Walt Disney, kiểu nhạc rock The Beatles, v.v.. John Lehnon, một thành viên của nhóm The Beatles này là, đã nói: “Nghĩ cho cùng, tôi chỉ quan tâm đến Yêu và Hòa Bình.”

Trong thế giới sau chiến tranh lạnh, chủ nghĩa khoái lạc này đã lan tràn và trở nên một sức mạnh đáng nể. Chủ nghĩa cần cù có hiệu suất cao kiểu Ford-Matsushita cần phải thay hình đổi dạng thế nào để thích nghi với tình huống này. Ðại diện cho chủ nghĩa hiệu suất cao, Matsushita Konosuke có niềm tin chắc chắn rằng “là nhà cung cấp, công ty Matsushita Denki Sangyo cương quyết cung cấp sản phẩm tốt nhất,” nhưng ông lại nghĩ rất ít về sự lựa chọn của người tiêu dùng.

Tóm lại, đối với người Nhật trong thời đại Heisei này, cái gì nên giữ lại và cái gì nên vượt qua trong ảnh hưởng của Matsushita Konosuke, con người vĩ đại tượng trưng cho thời đại Showa, là đề tài phải suy nghĩ.

[1] Nguyên văn “Ima Taiko,” tức là vị “Thái cáp đời nay.” Thái cáp là từ tôn xưng quan tể tướng. Ở Nhật Bản, khi nói đến Taiko người ta thường ám chỉ Toyotomi Hideyoshi, một người cũng xuất thân đi ở đợ sau làm đến tể tướng (1537-1598).

[2] “Chia màn cửa” là dịch nguyên văn từ Noren-Wake. Noren là tấm màn vải viết tên và nhãn hiệu của nhà hàng treo ngay cửa vào nhà hàng. Người làm công lâu năm sau khi đã lên tới hàng quản gia, được chủ cho phép ra mở tiệm riêng và được phép dùng thương hiệu của chủ. Việc cho phép như vậy gọi là Noren Wake.

[3] “Tiền thôi việc” là dịch từ Taishoku-Kin. Taishoku-Kin là một món tiền lớn mà một người làm công lâu năm nhận được vào lúc thôi việc. Thông thường số tiền này được tính theo tỷ lệ mỗi năm thâm niên được từ một tới vài tháng lương, tùy theo số năm làm việc ít hay nhiều. Một người có thâm niên hai ba chục năm, có thể được lĩnh món tiền thôi việc lên tới năm bảy chục tháng lương. Món tiền này biệt lập với tiền hưu trí.

[4] Ðại Ðông Á Cộng Vinh Quyển, là khái niệm xây dựng một khối thịnh vượng chung rộng lớn bao trùm từ Trung Quốc, Mãn châu cho tới hết Ðông Nam Á, đuổi hết người da trắng (Âu Mỹ) đi, hòa hợp tất cả các dân tộc Á châu lại với nhau lấy Nhật Bản làm minh chủ. Ðây là lý luận chính đáng hóa cuộc chiến tranh chiếm đoạt thuộc địa của Nhật Bản trong thời kỳ cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ hai.

[5] Tháng 7 năm 1948, trong lúc nội các Yoshida đang cắt giảm bớt biên chế của hệ thống đường sắt quốc doanh Nhật Bản, thì người ta tìm thấy thi thể của Shimoyama Sadanori, tổng giám đốc hệ thống đường sắt này, bị vứt bỏ trên tuyến đường sắt Joban. Hai thuyết, tự sát và tha sát, đã đối lập với nhau trong vụ này.

[6] Ngày 17 tháng 8 năm 1949, xe lửa bị lật đổ ở gần ga Matsukawa trên tuyến Tohoku Honsen. Một số người hoạt động công đoàn đấu tranh phản đối sự cắt giảm biên chế, đã bị đưa ra tòa xét xử. Phán quyết của tòa sơ thẩm và tòa thượng thẩm đều là có tội, song đến tòa tối cao thì tất cả đều được trắng án.

[7] Ðồ cứng, đồ mềm là dịch từ hardware và software của Anh ngữ. Nó tương tự như phần cứng phần mềm. Nhưng phần cứng và phần mềm chỉ áp dụng được cho hardware và software của máy vi tính thôi. Ở đây, đồ cứng, đồ mềm được dùng với ý nghĩa bao quát hơn. Ví dụ: Một bức danh họa tuy được vẽ trên vải bố, tức là một đồ cứng, nhưng cái giá trị của nó không phải là miếng vải bố, mà là những đường nét vẽ, cho nên phải coi nó là một đồ mềm. Giá trị của một cuốn tiểu thuyết hay cũng vậy, không phải là ở khía cạnh cứng của nó, tức là ở giấy in tốt ở mực in đẹp, mà là ở nội dung, ở văn chương, tức là ở khía cạnh mềm. Vậy phải coi đó là một đồ mềm hơn là một đồ cứng.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *