Chương III : Minamoto Yoritomo
– Người sáng chế ra cấu trúc quyền lực hai tầng
“Chính quyền kỳ lạ” chưa hề thấy
Minamoto Yoritomo sinh năm 1147 mất năm 1199, sau khi bị ngã ngựa nhân đi xem cầu dịp cuối năm trước đó, năm 1198. Tính tuổi đếm, ông thọ 53 tuổi. Thời ấy như vậy không phải là chết yểu vì đó là tuổi thọ trung bình.
Minamoto Yoritomo đã để lại trong lịch sử và dân tộc tính Nhật Bản một dấu ấn rất lớn. Nhất là nếu xét ảnh hưởng đối với Nhật Bản ngày nay, thì dấu ấn đó càng sâu đậm.
Công lao lớn nhất của Minamoto Yoritomo là sáng lập ra “phủ chúa” (“mạc phủ[1]“) làm nền tảng cho chính quyền “võ gia” (tức là “samurai”). Ðể đạt được mục đích này, ông đã phát minh ra một phương thức kỳ diệu. Nghĩa là, ông đã khéo léo sáng chế ra một “cấu trúc quyền lực hai tầng,” triển khai ra toàn quốc nền chính trị “võ gia” trong khi đó vẫn duy trì chế độ luật lệnh cũ sẵn có từ thời Nara.
Nói Minamoto Yoritomo là nói người đã được phong Chinh Di Ðại Tướng Quân, đã lập ra “mạc phủ” Kamakura, đã nắm quyền thống trị thực sự Nhật Bản. Ðiều này mọi người đều biết rõ.
Vậy, Chinh Di Ðại Tướng Quân mà Minamoto Yoritomo đã nhiệm chức là gì và “mạc phủ” do ông lập ra, là gì? Quyền lực bởi đó Yoritomo thống trị Nhật Bản có cơ sở pháp lý như thế nào? Nói cách khác, ông đã được ai đứng trên lập trường nào trao cho quyền hạn gì? Nghi thức và lập pháp ra làm sao? Lạ lùng thay là những chi tiết này lại ít ai biết tới.
Nói Yoritomo làm Chinh Di Ðại Tướng Quân, mở ra mạc phủ, người ta thường nghĩ ngay tới mạc phủ gần ngày nay nhất, tức là mạc phủ Tokugawa thời Edo[2] (1603-1867). Do đó, người ta tưởng tượng ngay rằng mạc phủ do Yoritomo lập ra thời Kamakura là cơ cấu thống trị giống như mạc phủ Tokugawa vậy.
Tuy nhiên, cũng gọi là mạc phủ, song cơ cấu do Yoritomo lập ra ở Kamakura khác xa với mạc phủ Tokugawa cả về tổ chức lẫn chức năng. Từ nguồn gốc của quyền lực, từ cấu trúc thống trị tới con mắt nhìn vào đó của thế gian, tất cả đều khác nhau lắm. Mạc phủ do Yoritomo lập ra chưa từng có cho tới lúc đó, và như vậy với cảm giác của chúng ta ngày nay, thì đó quả là một “chính quyền kỳ lạ.” Song, chính đó là chỗ tiềm tàng tính sáng tạo đáng sợ của ông ta.
Trải qua trước đó là thời đại Heian khá dài. Vua Kanmu thiên đô từ kinh thành Nagaoka sang kinh thành Heian năm 794. Từ đó, nếu kể khi Minamoto Yoritomo nhậm chức Chinh Di Ðại Tướng Quân lập ra mạc phủ Kamakura năm 1192, cũng là lúc thời đại Heian chấm dứt và thời đại Kamakura bắt đầu, thì thời đại Heian đã kéo dài 398 năm.
Thành phố Tokyo đã trở thành trung tâm hành chính, tức là đã bắt đầu có chức năng của thủ đô, là kể từ khi mạc phủ Tokugawa được mở ra ở thành Edo năm 1603. Nếu tính liên tục thì năm 2002, Tokyo sẽ phá kỷ lục của kinh thành Heian để trở thành đô thị có chức năng thủ đô lâu đời nhất trong lịch sử Nhật Bản. Với thời gian lâu như vậy, đô thị thường trở nên quá đông dân cư, hết nơi này đến nơi khác sinh ra tình trạng bất hợp lý. Vì vậy, cuộc thảo luận vấn đề dời đô đã diễn ra gần đây ở Nhật Bản, là chuyện đương nhiên. Trong cuộc thảo luận này, sự kiện Kamakura của Yoritomo tuy có chức năng của thủ đô, song trung tâm văn hóa và kinh tế vẫn còn là Kyoto, đã được đem ra tham khảo.
Kinh thành Heian đóng vai trò kinh đô, và như thế đã tạo ra một thời đại có hệ thống hẳn hoi, tức là “thời đại Heian,” một thời gian dài ngang với từ khi Tokugawa Ieyasu lập ra mạc phủ ở thành Edo cho tới Thành phố Tokyo ngày nay.
Dĩ nhiên, trong 398 năm này đã có biết bao lần quyền lực được luân chuyển, bao nhiêu đổi thay rồi. Thời kỳ đầu của thời đại Heian thì ít nhiều vẫn còn ảnh hưởng tàn dư của thể chế quốc gia luật lệnh thời Nara. Cái thể chế lúc đó hãy còn là tập quyền trung ương với vua làm trung tâm. Nhưng dần dần thể chế này băng hoại, để đến khoảng giữa thời kỳ Heian, thì cả nước thành những trang viên, trang ấp do các nhóm quý tộc chia nhau cai quản.
Thể chế quốc gia luật lệnh của thời đại Nara, là rập y theo khuôn mẫu của nhà Ðường bên Trung Hoa. Do đó, thể chế tập quyền trung ương được tổ chức nề nếp ngăn nắp, gọi là “nhị quan bát tỉnh[3].”
Nhị quan gồm có Thần Kỳ quan, tức là quan tôn giáo lo việc tế lễ, và Thái Chính quan tức là quan lo việc chính trị, tương đương với thủ tướng ngày nay. Dưới quyền chỉ huy của Thái chính quan có tám bộ (gọi là “tỉnh”), với các chức quan đại thần như là Dajodaijin, Sadaijin, Udaijin, Naidaijin, v.v., và các chức phó đại thần như Dainagon, Chunagon, Shonagon, v.v. Chế độ quan chức thật là chỉnh tề. Chế độ địa phương cũng được chỉnh đốn, xếp đặt gọn gàng.
Ðồng thời, phép “ban điền thu thụ” được thực thi.Theo phép này thì tất cả đất trồng trọt đều thuộc sở hữu nhà nước. Mỗi người dân được cho mượn một khoảnh nhất định. Phép tắc như vậy trên thực tế đã được thực thi bao lâu và trên quy mô bao lớn, còn là vấn đề nghi vấn. Song, thực sự là chế độ như vậy đã được nỗ lực áp dụng một thời kỳ nhất định. Nghĩa là, thể chế của triều đình nhà Ðường đã được du nhập y nguyên, được tổ chức quy củ để xác lập chế độ tập quyền trung ương.
Ðến thời đại Heian, thì thể chế trên dần dần băng hoại, chế độ trang viên, trang ấp sinh ra và quyền thống trị trang viên của bọn quý tộc trở nên mạnh mẽ. Ðến nỗi, quyền lực trung ương không còn có ảnh hưởng tới những trang viên này, tức là lãnh địa của bọn quý tộc nữa, khiến phát sinh ra cấu trúc phân quyền địa phương. Ngoài ra, đất đai của chùa chiền, của đền đài, do nhà vua hoặc quý tộc tặng cho, cũng chiếm diện tích khá lớn. Quản lý những lãnh địa của quý tộc hay đất đai của đền chùa này, là đám võ sĩ (samurai) ở địa phương. Ðó chính là những quản gia kiêm vệ sĩ.
Tóm lại, ở thời Heian thì giới quý tộc xem võ sĩ samurai là lớp người ti tiện. Quý tộc thường chỉ sinh hoạt ở kinh đô, như Hikaru Genji đã nói đến ở Chương II. Mà nếu họ có nhậm chức quan địa phương đi chăng nữa, họ cũng chẳng làm gì thật sự cả. Việc bắt nông dân hay đám nô bộc lao động gia tăng hoa màu để thu thuế (“niên cống”) là công việc của võ sĩ samurai. Công việc của võ sĩ là dùng bạo lực đàn áp nông dân, thay cho giới người quý tộc không muốn nhúng tay vào việc này. Vì vậy, trong thời kỳ giai cấp võ sĩ samurai mới hình thành như vậy, họ thường bị gọi là “bọn thầy chùa sát sinh.”
Tuy nhiên, ai đã được trao cho việc làm bạo lực như vậy, cũng dần dần mạnh lên rồi độc lập. Giai cấp võ sĩ thời đại Heian không phải là ngoại lệ. Họ trở nên mạnh, qua việc đè nén nông dân ở hiện trường, trực tiếp quản lý sản xuất. Cùng với thời đại, họ mạnh lên, biết bớt xén niên cống đóng cho quý tộc, và nhờ đó có thể tự lập được về mặt kinh tế. Võ sĩ samurai tự lập được như vậy quay ra đánh lẫn nhau để mở rộng thế lực. Trong một thời gian dài, giới quý tộc đã lợi dụng bọn võ sĩ samurai trong cuộc tranh giành này để duy trì quyền lực của mình trên thế cân bằng. Song, tới cuối thời đại Heian, người ta đã thấy xuất hiện những “cột trụ võ sĩ,” tức là những người lôi kéo được đông đảo võ sĩ thần phục mình. Ðó là những võ tướng, những sứ quân, như Genji, như Heike vậy.
Yoritomo xuất hiện
Quý tộc nước nào cũng dẻo dai, bền bỉ. Nhất là quý tộc thời đại Heian lại càng dai dẳng, không dễ gì tiêu diệt họ được. Họ khiến bọn võ sĩ đánh lẫn nhau để duy trì quyền uy của mình. Vì vậy đã có loạn lớn. Năm 1147, tức là năm Minamoto Yoritomo ra đời chính là lúc bắt đầu của thời kỳ tao loạn này.
Cha và ông nội Yoritomo, tức là Yoshitomo và Tameyoshi đã chia thành hai phe bạn và thù, đối địch với nhau trong cơn loạn năm 1156. Ðám quý tộc thuộc dòng họ Fujiwara, tuy lúc đó chỉ là làm cảnh, song đã nghiễm nhiên ngồi trên hai phe. Với bọn quý tộc, nếu không có sự ủng hộ của giới võ sĩ samurai, họ không thể đánh nhau được. Mặt khác, đám võ sĩ thì không có đủ uy quyền đứng làm thủ lãnh. Nói cách khác, võ sĩ samurai thì dùng quý tộc làm cảnh, quý tộc thì lợi dùng samurai làm bộ đội chiến đấu.
Minamoto Yoritomo thuộc dòng chính của họ Seiwa Genji. Họ này xuất phát từ con vua Seiwa, được phong tên họ là Minamoto. Trong hàng võ gia, họ này là danh giá nhất. Yoritomo sinh ra trong dòng chính của họ này, cho nên năm mới 12, 13 tuổi đã được phong quan tước là “Tùng ngũ vị hạ nội tàng nhân[4].”
Tùng ngũ vị hạ là tước vị thấp nhất trong hàng quan được vào chầu vua. Nhưng, ngay sau đó, năm 1159 lại có loạn Heiji. Cha Yoritomo, tức là Yoshitomo, đã thua Taira no Kiyomori. Yoritomo đã bị bắt giải về Kyoto và sắp bị chém thì được ni cô Ikenozenni, người vợ thứ của Taira no Kiyomori lúc đó đã xuất gia, xin cho khỏi chết. Sau đó Yoritomo bị đày ra đất Izu.
Sau đó khoảng 20 năm, tức là cho tới năm 33 tuổi, ông bị quản thúc dưới quyền quan địa phương. Trong khoảng thời gian này, hình như ông vẫn không ngừng thu thập tin tức, tìm hiểu tình thế. Sau này, từ một nơi chỉ đáng gọi là vùng quê hẻo lánh của nước Nhật, tức là Kamakura, ông đã trở thành một con người tinh tường tin tức, chính là vì đã có năng khiếu từ thời bị lưu đày vậy.
Taira no Kiyomori nổi loạn Heiji, nắm được quyền bính, nên tầng lớp võ sĩ, cho đến lúc đó vẫn bị coi là giai cấp thấp hèn, thì nay trở nên mạnh, và ngay trong việc chính trị, cũng bày tỏ được ý kiến mạnh bạo. Năm 1167, Kiyomori đã leo lên tới quan chức tối cao, tức là Dajodaijin. Tuy nhiên, chỉ ba tháng sau, ông từ chức để đi tu, song trên thực tế vẫn nắm thực quyền.
Taira no Kiyomori là con người hào phóng lỗi lạc, giống như võ tướng Oda Nobunaga sau này, nên đã có tư tưởng cải cách. Vì thế, nên ông đã bị các thế lực cũ, đại biểu là pháp hoàng Go-Shirakawa, phản đối kịch liệt. Cái quan hệ giữa Taira no Kiyomori và pháp hoàng[5] Go-Shirakawa này cũng tương tự như quan hệ giữa Oda Nobunaga và mạc tướng (Shogun) Ashikaga Yoshiaki vậy.
Thế rồi, thời toàn thịnh của Heike kéo dài được 10 năm. Vào khoảng năm 1180 (niên hiệu Trị Thừa năm thứ tư) thì cả nước Nhật Bản bi nạn đói hoành hành. Trận đói này làm một yếu tố quan trọng trong cuộc phân tranh Genpei[6]. Nhân trận đói này, lòng dân phẫn uất trước quyền cai trị của Heike, và loạn lạc bùng ra tứ phương. Việc Minamoto Yoritomo đã khởi quân chống lại nhà Heike, không phải là duy nhất. Trong tình trạng đói kém đó, những đám phản loạn tương tự đã phát sinh ra ở khắp nơi.
Tháng 4 năm 1180, Yorimoto đã được mật chiếu chinh thảo họ Taira của vua Mochihito. Tháng 8, ông dương cờ phản ở Izu. Trong trận đánh với các tướng của Heike như bọn Oba Kagechika ở Ishibashiyama, thuộc Sagami, nay là thị trấn Odawara, tỉnh Kanagawa, ông bị thua, suýt bị bắt, song đã thoát nạn nhờ ẩn náu trong hang ở Sugiyama. Ngày hôm sau, quân Heike lùng soát hang động, ông sắp bị bắt thì may được tướng của Heike là Kajiwara Kagetoki vì tình mà tha cho chạy thoát[7]. Cảnh này đời sau thường được ca ngợi trong những màn kịch cổ.
Thoát nạn, Yoritomo theo đường biển thoát sang đất Awa (nay là địa phận tỉnh Chiba). Ở đây, nhờ được sự tiếp viện của các tướng như Kazusanosuke Hirotsuke hoặc Chibanosuke Tsunetane của dòng họ Miura, lãnh chúa[8] vùng Joso Kaso (nay cũng thuộc tỉnh Chiba), ông đánh ngược lên chiếm các vùng đất Kanto[9]. Trong khi đó, tình trạng xã hội trở nên vô cùng bất ổn vì trận đói hoành hành. Tập thể võ sĩ samurai hạ cấp do Heike thống suất đã tan rã.
Trong khi Yoritomo đánh lên phía bắc, thì tháng 10 cùng năm đó đã có trận đánh ở Fujikawa. Viên đại tướng tổng chỉ huy quân chinh phạt Yoritomo, là Taira no Koremori, mặc dầu trong tay có đại quân, mà nửa đêm chỉ vì nghe thấy tiếng vỗ cánh bay của đàn vịt trời, bỗng kinh hồn bỏ chạy về mất. Theo sách Sơn Hoè Ký (Sankaiki) thì viên tướng này “nghe thấy tiếng vỗ cánh của bầy vịt trời, tưởng lầm là bị địch đánh úp ban đêm.” Tuy nhiên, về mặt số lượng thì quân Taira đông hơn nhiều, nên hẳn phải có nguyên nhân khác nữa làm cho viên tướng này khiếp sợ. Có lẽ đây là vì đám võ sĩ hạ cấp thuộc hạ thiếu ăn bất mãn nên dám làm loạn bất cứ lúc nào.
Thêm nữa cái bất hạnh cho phe Heike là năm 1181, Kiyomori đã chết vì bị cảm sốt.
Yoritomo thắng trận Fujikawa, nhưng sau đó hầu như không ra trận nữa. Những trận đánh chinh thảo Heike sau này là do Minamoto Yoshinaka ở Kiso. Từ Kiso khởi binh, Yoshinaka đã phá quân Heike ở đèo Gurikara, rồi men đường Hokuriku đánh tới kinh đô Kyoto. Ông quét sạch quân Heike sau khi đoàn quân này đã mất chủ soái Kiyomori, rồi lên làm Chinh Di Ðại Tướng Quân. Nắm được quyền bính ở kinh đô, thanh thế Yoshinaka lớn lắm, đến nỗi người đời đó đã gọi ông là “tướng quân mặt trời mọc.” Thế nhưng, một mặt ông bị sự đối lập của phe muốn bảo tồn quyền lực của quý tộc ở kinh đô, một mặt quân đội của ông cũng gây nhiều nhũng nhiễu làm mất lòng dân, có lẽ vì lương thực không đủ để nuôi quân.
Tháng 10 năm 1183, Yoritomo được sắc phong tổng lĩnh binh quyền khu vực miền Ðông. Yoshinaka không bằng lòng việc này, đã quản thúc pháp hoàng Go-Shirakawa. Do đó, pháp hoàng đã cho Yoritomo mật chiếu chinh phạt Yoshinaka.
Ðược mật chiếu, Yoritomo phái hai em là Noritomo và Yoshitsune đi đánh Yoshinaka. Yoshitsune đã phá Yoshinaka ở Ujikawa, kéo quân vào kinh thành Kyoto. Sau đó, ông đuổi quân Heike ở Ichinotani, nay là thành phố Kobe, thuộc tỉnh Hyogo, bao vây địch quân ở Dannoura hơn một năm mới phá tan được. Như thế là cuộc phân tranh Gempei chấm dứt, và từ đó quyền độc tài quân sự bởi họ Minamoto đã được thực hiện.
“Chinh di đại tướng quân” chỉ là một chức tư lệnh quân đội
Trong khoảng thời gian cuộc chinh phạt diễn ra như trên, thì Yoritomo làm gì? Ông đóng quân ở Kamakura, giữ vững quyền cai quản miền Kanto. Chẳng hạn, ông đem quân quét sạch vùng đất của họ Satake, nay là tỉnh Ibaraki, vốn cũng thuộc dòng họ Genji, lúc đó mưu toan độc lập. Ấy đại để ông chỉ có chiến công như vậy thôi, chứ không có những chiến công hiển hách như Yoshitsune. Như vậy kể cũng lạ đối với một võ tướng đã bình định được thiên hạ như Yoritomo.
Yoshitsune sau khi chinh phạt xong Yoshinaka, chiếm được kinh đô Kyoto rồi thì tiếp tục đánh tới bờ biển phía tây, quét sạch họ Heike. Song, như vậy sao tránh khỏi giữa Yoshitsune và Yoritomo, hoặc giữa Yoshitsune và pháp hoàng Go-shirakawa có sự bất hòa. Yoritomo chỉ chờ như vậy để xua quân thảo phạt các em mình. Thêm nữa, Yoritomo lại chinh phạt luôn cả Fujiwara Yasuhira, lãnh chúa đã được bốn đời của đất Hiraizumi, thuộc địa phương Oshu, vì đã che dấu Yoshitsune khi ông này bị lùng bắt đã chốn sang đất ấy. Tóm lại, Yoritomo đã dùng võ lực trong thế chờ đợi an nhàn, nên đã dễ dàng đắc thắng, chiếm được quyền chi phối toàn nước Nhật. Thật là khôn ngoan, song không được quần chúng hâm mộ.
Bây giờ, ta thử tìm hiểu xem Yoritomo lúc ấy chính thức giữ địa vị gì? Ta sẽ thấy vô cùng thú vị.
Như đã nói ở trên, lúc 12, 13 tuổi, Yoritomo đã được phong tước Tùng ngũ vị hạ, rồi lãnh chức Hyoe no Suke, tức là chỉ huy phó của một đội bảo vệ, ngày nay tương đương với vụ phó ở cơ quan trung ương. Tuổi mới 12, 13 cho nên đây chỉ là chức vụ tượng trưng. Sau đó, vì loạn Heiji, Yoritomo đã bị cách khỏi chức vụ này và bị đày ra miền Ðông.
Sau khi dẹp xong họ Heike, Yoritomo đã được đền đáp công lao như thế nào? Ông đã được pháp hoàng Go-Shirakawa ban cho “quyền sa thải” ở miền Ðông. Theo ngôn ngữ ngày nay, thì quyền này tương đương với quyền của một tỉnh trưởng. Nói cách khác, Yoritomo đã nắm được quyền nội chính của miền đông nước Nhật. Năm 1184 (niên hiệu Nguyên lịch nguyên niên), dẹp xong Yoshinaka, và năm sau (niên hiệu Văn trị nguyên niên) thì diệt xong họ Heike. Tháng 11 năm đó, Yoritomo được lãnh quyền chỉ định các quan trấn thủ, quan cảnh vệ các châu quận toàn quốc. Như thế ông đã tạo ra được một cơ chế khiến samurai trong cả nước đã mặc nhiên phải trở thành thuộc hạ của ông. Nghĩa là, ông mới chỉ nắm được quyền quân sự và quyền cảnh sát trên toàn quốc, chứ chưa hẳn đã được giao phó toàn quyền cai trị. Hơn thế nữa, người trao quyền như vậy cho Yoritomo lại chỉ là pháp hoàng Go-Shirakawa (một ông vua đã thoái vị đi tu), nên sự việc này không có cơ sở pháp lý nào cả.
Trong khoảng thời gian ngắn trước sau những diễn biến trên, Yoritomo đã đặt ra ở Kamakura cái gọi là “sở công văn” và “sở vấn chú[10].” Hai sở này thật ra chỉ là “sở tư,” “xí nghiệp tư” để quản lý tài sản riêng của Yoritomo mà thôi. Mặc dầu có quy mô lớn hơn, chúng không khác gì những cơ cấu tương tự đã được giới quý tộc lập ra để quản lý trang viên của họ.
Tuy nhiên, nhờ nắm được thực quyền trong tay, Yoritomo đã đưa được người quý tộc của phe phái mình vào địa vị trọng yếu. Chẳng hạn, ông đã đề nghị thành công cho Kujo Kanezane vào chức Nairan, quan chức tương đương với “chuẩn quan bạch[11]” có quyền duyệt xét mọi sắc sớ trước khi tâu vua, nghĩa là, ông đã đưa được vây cánh của mình vào địa vị quyết đoán chương trình nghị sự để thao túng triều đình.
Khoảng 5, 6 năm sau, tức là vào năm 1190, Yoritomo mới lần đầu tiên được yết kiến pháp hoàng Go-Shirakawa và được phong Gon Dainagon U-Konoe Taisho (Quyền Ðại Nạp Ngôn Hữu Cận Vệ Ðại Tướng). Chức đó, sau này Oda Nobunaga cũng giữ lâu năm, chỉ là chỉ huy trưởng cảnh sát trấn giữ cung vua, tương đương với một bộ trưởng thường. So với Taira Kiyomori đã lên tới Dajodaijin (tướng quốc) thì chức vị của Yoritomo hãy còn khiêm nhượng lắm, song dù sao như vậy ông cũng đã lên tới địa vị đáng nể trong thể chế luật lệnh đương thời.
Thế nhưng, ngay năm sau, ông từ chức đó. Như vậy là trong thể chế luật lệnh ông đã trở thành vô vị vô quan. Năm 1192, ông được phong Chinh Di Ðại Tường Quân và lập ra “mạc phủ” ở Kamakura.
Vậy thì Chinh Di Ðại Tướng Quân là gì? Thói thường, nghe Chinh Di Ðại Tướng Quân, người ta nghĩ ngay rằng đó là quan chức tố cao của mạc phủ, đương nhiên có quyền cai trị thiên hạ. Nhưng đó là kể từ sau nhà mạc phủ Tokugawa. Chứ thời Yoritomo nhậm chức đó thì không phải như vậy.
Không phải Yoritomo là người đầu tiên nhậm chức Chinh Di Ðại Tướng Quân. Ðầu tiên là Otomo Otomaro. Ông này được phong chức đó đúng năm kinh đô Heian được lập ra, tức là năm 794.
Thời đó, miền đông Nhật Bản, tức là từ vùng Kanto tới vùng Tohoku ngày nay, còn có người Ezo chưa chịu thần phục triều đình Yamato, cư ngụ. Theo nhân chủng học, thì trong đám người này có lẽ có người thuộc dân tộc Ainu. Tuy nhiên, thời ấy, tất cả những người ở miền đông không chịu tuân theo triều đình Yamato, đều bị gọi là Ezo. Cũng như vậy, những người ở miền nam Kyushu thời đó không chịu thần phục triều đình Yamato, thì gọi là Kumaso.
Chinh Di Ðại Tướng Quân là chức quan đánh dẹp người Ezo, đối lại với chức quan đánh dẹp miền nam là Trấn Tây Ðại Tướng Quân. Nói cách khác, Chinh Di Ðại Tướng Quân là tổng tư lệnh quân đội miền Ðông, chẳng qua là một chức võ quan lâm thời.
Người thứ hai nhậm chức Chinh Di Ðại Tướng Quân, tổng tư lệnh quân đội miền Ðông, là Sakanoue no Tamuramaro, người đã khai khẩn vùng Tohoku, biến vùng đất giá lạnh đó thành ruộng cấy lúa được.
Người thứ ba là Fun’yano Watamaro, không nổi tiếng lắm. Từ đó, vùng Tohoku đã đặt dưới quyền cai trị của triều đình Yamato, nên chức Chinh Di Ðại Tướng Quân bị bỏ đi.
Rồi một thời gian sau, Yoshinaka vào kinh đô, thành Chinh Di Ðại Tướng Quân như đã kể trên. Ðúng ra, người ta cho rằng chính Yoshinaka đã tự phong cho mình chức đó. Thế rồi, sau khi Yoshinaka mất, chức này lại bị bỏ trống tám năm nữa. Ðến năm 1192 mới lại thấy Minamoto Yoritomo thụ phong chức này.
Xem như trên, ta thấy rằng chức võ quan lâm thời tổng tư lệnh quân đội miền Ðông, Chinh Di Ðại Tướng Quân, chỉ là một quan chức nhỏ, nhất thời trong thể chế luật lệnh. Thế nhưng, Minamoto Yoritomo đã lợi dùng quyền chỉ định và sa thải các tư lệnh địa phương mà trước kia pháp hoàng Go-Shirakawa đã ban cho ông bằng một bức thư riêng, khiến samurai toàn quốc phải nghe theo chỉ thị của mình sau khi được phong tổng tư lệnh quân đội miền Ðông.
Tóm lại, cái cơ sở pháp lý cho Yoritomo nắm quyền thống trị toàn quốc thật là kỳ lạ.
Bề ngoài là thể chế luật lệnh, thực chất là cơ chế “mạc phủ”
Thêm nữa, cái khôn ngoan đáng sợ của Minamoto Yoritomo là giữ nguyên thể chế quan lại “nhị quan bát tỉnh,” không đụng chạm gì đến các quan chức ở kinh đô từ Dajodaijin, Sa-Udaijin trở xuống.
Cấu trúc hai tầng về quyền hạn, quyền lực: Ðây mới là điểm sáng tạo độc đáo, đồng thời là điểm đáng ngại của Yoritomo.
Tổng tư lệnh quân đội miền Ðông (Chinh Di Ðại Tướng Quân) không những đã chỉ nắm quyền quân sự của quân đội miền Ðông, mà còn lần lượt đặt ra và phong thêm nhiều quan chức khác nữa. Ðây là những “quan chức ngoài luật lệnh,” tức là những quan chức không có quy định trong luật lệnh. Người ta nói, người Nhật quen xử sự theo hai cách: “vỏ ngoài (hình thức)” và “mặt trong (thực chất).” Yoritomo biết phân biệt thể chế luật lệnh (hình thức) và cơ chế mạc phủ (thực chất), làm thành một cấu trúc quyền lực hai tầng, không phải đã không có liên quan mật thiết với điều đó.
Tư tưởng “dịch tính (hoặc dịch thế) cách mạng” phát sinh ra ở Trung Hoa thời cổ xưa, như đã nói ở trên, coi thiên tử là người nhận thiên mệnh (mệnh trời) trị thiên hạ. Nhưng nếu đức cạn khiến sinh ra trong nhà một kẻ thất đức, thì họ này không còn tư cách làm thiên tử nữa, và một họ khác có đức hơn sẽ nhận thiên mệnh lập ra dòng vua khác, nghĩa là đổi đời, đổi họ vậy. Ðây là tư tưởng chính trị nhìn nhận cách mạng. Tư tưởng này lan ra khắp vùng đông châu Á: Trung Hoa thì đương nhiên, cả Mông Cổ, Hàn Quốc (và Việt Nam nữa), đâu đâu cũng có nhiều lần thay đổi triều vua. Ở châu Âu hay Ấn Ðộ cũng vậy, hể có thay đổi người nắm quyền lực thì có thay đổi triều vua.
Thế nhưng, duy có Nhật Bản là nước “vạn thế nhất hệ (muôn đời một dòng họ).” Ở đây, kể từ Thái tử Shotoku, người Nhật đã thấm nhuần khái niệm một người có thể tin một lúc nhiều tôn giáo, cho nên sau khi Ðạo Phật đã truyền vào rồi mà Ðạo Thần (tức là Shinto, Thần đạo) vẫn sống còn. Lại thêm có Yoritomo nghĩ ra phương pháp thành lập chính quyền samurai trong lúc vẫn duy trì triều đình với thể chế luật lệnh giữ nguyên vẹn. Với hai việc như vậy, người ta thấy rằng cái tuyệt đối, cái duy nhất, cả về tinh thần lẫn về chính trị, đều không còn ở xứ này nữa. Có chăng chỉ còn loại người biết thực tế, biết thỏa hiệp khéo léo, mà thôi.
Ðúng ra, “mạc phủ” thời Kamakura không phải đã cai trị được đất đai cả nước Nhật Bản. Mạc phủ Kamakura với tư cách tổng tư lệnh quân đội miền Ðông, tuy đã thu hút được samurai trên toàn quốc vào dưới trướng của mình, song trên thực tế, đất đai do samurai cai quản mới chỉ được một nửa trên toàn quốc. Một nửa còn lại là trang viên của quý tộc hay của đền chùa. Những nơi này vì không thuộc quyền quản lý của samurai, nên quyền hành của bộ tổng tư lệnh quân đội miền Ðông không ảnh hưởng tới được.
Thêm nữa, mạc phủ Kamakura cũng không có quyền chỉ định các quan chức của thể chế luật lệnh, từ Dajodaijin trở xuống. Quyền này vẫn là thuộc triều đình ở Kyoto. Duy, các quan chức như vậy trên thực chất đều không có quyền hành gì tương xứng cả.
Triều đình có quyền cai trị đất đai và quyền phong quan cai trị, song mạc phủ Kamakura lại có võ lực, nên khi cần có thể bắt giữ lưu đày quý tộc hay hoàng tộc. Việc đó đã xẩy ra sau chính biến Thừa Cửu năm 1221, khi quan phụ chính Hojo Yoshitoki và người con kế nghiệp là Hojo Yasutoki hành sử quyền đó.
Yoritomo còn học thêm được một bài học sau cái thất bại của Taira no Kiyomori. Ông đã tách chức năng thủ đô đem ra Kamakura, một nơi xa hẳn kinh đô để tránh ảnh hưởng của bè phái và quyền lợi. Ông đã, bằng sự cách ly về địa lý và hình thái của hai đô thị, thực sự cho người ta cảm thấy rõ rệt cái cấu trúc hai tầng của quyền lực, một hình thức và một thực chất.
Từ đó cho tới thời Minh Trị, triều đình nước này luôn luôn đóng ở kinh đô, song trung tâm hành chính thì đổi chỗ từ nơi này sang nơi khác. Nhờ thế, thể chế chính trị có thể đổi khác, song văn hóa vẫn được kế thừa. Yoritomo, vì có tính đa nghi, nên đã cảm thấy cần cách ly công khanh với võ sĩ samurai phần vì sợ sức thẩm thấu văn hóa của triều đình và công khanh vào võ sĩ samurai, phần vì e ngại sức mạnh của lòng hâm mộ của võ sĩ samurai đối với văn hóa công khanh.
Minamoto Yoshitomo đã tránh không đối đầu toàn diện với thể chế cũ, và bằng một thủ đoạn hiện thực khéo léo đã lập ra một chính quyền trong tình trạng mập mờ về mặt pháp lý. Có thể nói, ông đã đả phá cái quan niệm thường thức là “một nước chỉ có một chính phủ.”
Tuy nhiên, thấy làm như vậy được thì hết người này tới người khác bắt chước làm theo. Có người sẽ nghĩ rằng: Nếu những quan chức như Dajodaijin hay Sa-Yudaijin mà chỉ có danh không có thực quyền cũng được, thì ngay Chinh Di Ðại Tướng Quân, tức là tổng tư lệnh quân đội miền Ðông, cũng có thể đôn lên làm vì để cho kẻ dưới nắm lấy thực quyền chứ gì?
Thực hành điều đó chính là vợ Yoritomo, tức là Hojo Masako và người cháu ruột tên là Hojo Yasutoki. Khi con cháu Yoritomo tranh giành sát hại lẫn nhau không còn ai nữa, thì hai người này bèn lựa trong hàng ngũ công khanh ở kinh đô một người xứng đáng để đôn lên làm tướng shogun, còn thực quyền thì giao cho nhân vật đứng ngay dưới shogun, gọi là Chấp quyền (“phụ chính”) do dòng họ Hojo nắm giữ. Nghĩa là một người chỉ tương đương với chức tham mưu hoặc chánh văn phòng của bộ tổng tư lệnh quân đội miền Ðông, đã nắm được thực quyền, thao túng bộ tổng tư lệnh này vậy.
Bắt đầu truyền thống “thực quyền thuộc kẻ dưới”
Sự việc trên vừa đúng là cái mặt trái của hình tượng quý phái kiểu Hikaru Genji đã nói ở chương trước. Nó còn có ảnh hưởng tới hình dạng cơ cấu quyền lực của Nhật Bản ngày nay nữa. Trong xã hội Nhật Bản bây giờ, thì thủ tướng hay bộ trưởng các bộ không nắm thực quyền bằng một giám đốc trực thuộc, hay đúng hơn, có nhiều trường hợp không bằng một vụ trưởng. Không phải chỉ có thế, cái suy nghĩ cơ bản là, người ngồi trên thì không nên “chi li” quá, không nên tỉ mỉ quá. Người có trách nhiệm tối cao chỉ nên ngồi làm tượng trưng, còn thực quyền thì trao cho các cấp thực thi ở dưới. Như thế mới là cách làm việc đúng.
Chính phủ Nhật Bản ngày nay đã kế thừa trung thực truyền thống ấy. Bộ trưởng chỉ đọc cái gì quan liêu (công chức) đã viết ra thôi. Nếu đọc sai thì bị chê là “bậy.”
Chẳng hạn, thời nội các Kaifu[12] đã xẩy ra “vụ tê-ta” như sau. Ðảng đối lập đặt vấn đề “nên cải cách thuế tiêu thụ.” Họ lý luận rằng những mặt hàng như thực phẩm thì nên áp dụng thuế suất nhẹ.
Lúc ấy, Thủ tướng Kaifu, được đám quan liêu (công chức) Bộ Kho bạc đưa cho tờ ghi chép viết rằng: “sẽ mạnh dạn xem lại thuế tiêu thụ[13],” song không biết có phải cố ý hay không, ông đã đọc sai thành: “sẽ (có những) xem lại mạnh dạn thuế tiêu thụ[14].” Nghĩa là, ông đã nói sai chữ “tê” thành chữ “ta”, nên mới gọi là “vụ tê-ta.”
Cùng là một tiếng Nhật (omoikiru), song nói “omoikitte” (ô-môi-kít-tê, thể tiến hành hiện tại) hay nói “omoikitta” (ô-môi-kít-ta, thể quá khứ), thì ý nghĩa khác nhau nhiều lắm. Ðám công chức Bộ Kho bạc viết “sẽ mạnh dạn xem lại thuế tiêu thụ” là ý nói “nên sửa lại thuế tiêu thụ hay không là vấn đề còn lưỡng lự, song xin hứa sẽ mạnh dạn xem để sửa lại.” Cũng có thể hiểu là sẽ xem lại song không hẳn sẽ có cải cách lớn. Song, như Thủ tướng Kaifu nói “sẽ xem lại mạnh dạn…” thì như vậy nghĩa là “sẽ làm những cải cách mạnh dạn.”
Ðám công chức Bộ Kho bạc nổi giận. Một người trong đám họ dám nói: Một tên thủ tướng mà dám đọc sai câu viết của cơ quan chủ quản, là ý gì?
Ðúng ra, y định nói “một tên quan lại” song đã buột miệng ra thành “một tên thủ tướng.” Ðây chẳng qua là cái cảm nghĩ thường ngày của một cán bộ cao cấp đã ngẫu nhiên vuột ra không kiềm chế được.
Ở Nhật, không cứ gì đám quan liêu Bộ Kho bạc, mà ngay ở các xí nghiệp cũng vậy, có rất nhiều khi người ta muốn xổ ra “một tên tổng giám đốc!”
Dù là thủ tướng, nhưng cũng phải để cho ý kiến của chuyên gia thuộc hạ được thông qua. Ở xí nghiệp cũng vậy, tổ chức càng lớn thì người ngồi trên chóp bu càng nên nghe theo ý kiến của cấp dưới sau khi những người này đã nghiên cứu kỹ càng rồi. Ðiều này là chuyện đương nhiên. Không làm ngược lại cấp dưới:”Chí lý! Tụi bay đã làm tốt lắm. Tao sẽ đọc y hệt như vậy. Hiểu rồi. Hiểu rồi.” Nói như vậy mới đáng gọi là thái độ của kẻ cả, của người làm lớn, được trọng vọng ở Nhật Bản vậy.
Nhờ Minamoto Yoritomo sáng lập ra chế độ thao túng chính trị bằng cách đẻ ra rất nhiều “quan chức ngoại lệ,” nên một tiền lệ đã hình thành, theo đó cơ cấu thượng tầng được bảo tồn trên hình thức, nhưng thực quyền đã được chuyển giao cho cơ cấu hạ tầng. Kết quả là đám quý tộc sống dựa vào thể chế luật lệnh ở kinh đô vẫn duy trì được tư thế danh gia thế phiệt. Nhờ vậy mà đã chỉ có rất ít máu chảy, một sự phân công nghiệp vụ đã hình thành: Võ sĩ samurai thì đảm đương quân sự chính trị, còn quý tộc thì đảm đương văn hóa.
Cũng vì vậy mà nền văn hóa do quý tộc ở kinh đô đảm đương đã thiếu sinh khí, thiếu thực cảm sinh hoạt. Tuy nhiên, phải nhìn nhận rằng nó có hiệu quả giữ được nhân tài bảo hộ văn hóa.
Phải chờ đến 300 năm sau, tức là tới hậu bán của thời Muromachi mới thấy tầng lớp võ sĩ samurai bắt đầu sáng tạo ra văn hóa mới. Lúc ấy, võ sĩ samurai lớp trên của nhà mạc phủ Ashikaga, tức là hàng quận thú, thái thú thì lần lần quý tộc hóa, nên bị đám lãnh chúa mới nổi lên dần dần chiếm đoạt mất thực quyền. Ðến thời võ tướng Oda Nobunaga thì quý tộc Heian suy đồi đến nỗi không còn năng lực đảm đương văn hóa nữa. Sang tới xã hội ổn định của thời Tokugawa thì văn hóa quý tộc Heian lại phục hưng. Do đó, những nghề nghiệp như công nghệ cổ truyền ở vùng quanh kinh đô đã hưng thịnh lên nhờ tiếp nhận thêm kỹ thuật sản xuất mới.
Nếu những người có tiền bạc, có sức mạnh, có thực quyền đứng ra xúc tiến hoạt động văn hóa như ở Anh, ở Pháp, thì hạng người võ biền như Nobunaga, như Hideyoshi, cũng có thể đã làm bén rễ ở Nhật Bản những văn hóa đồ sộ từ lâu rồi.
Những công trình kiến trúc như thành Azuchi, thành Ozaka, cung Jurakudai[15], đều đã làm cho các nhà truyền giáo đạo Cơ đốc kinh ngạc và thán phục, bởi vì thời đó chúng đồ sộ, tráng lệ hơn những thành quách, cung điện của Tây Âu. Thế nhưng, quý tộc Nhật Bản ở kinh đô thời đó, vừa không có thực quyền, vừa không có tiền, nên đã phải đi tìm cái đẹp trong những loại hình nhỏ bé, ai ai cũng có thể làm ra được.
Minamoto Yoritomo, với sự xây dựng cấu trúc quyền lực có thực chất, tránh xung đột quyết liệt với thế lực bảo thủ bảo cựu, đã mặc nhiên lưu lại ở Nhật Bản một cấu tạo văn hóa gồm hai loại hình khác nhau từ người đảm đương đến hình thái. Ðó là văn hóa công khanh (quý tộc) và văn hóa võ gia (samurai).
Dù chỉ với ý nghĩa rằng đó là người đã lần đầu tiên lập ra nền chính trị võ gia, xã hội võ sĩ, thì Minamoto Yoritomo cũng đáng là người vô cùng quan trọng trong lịch sử Nhật Bản. Cũng không thể bỏ qua sự thật là ông cũng đã tách rời hẳn quyền hành chính khỏi quyền tôn giáo. Nghĩa là theo thể chế luật lệnh thì phải có “nhị quan,” với “quan tôn giáo” là một, song mạc phủ Kamakura đã không đặt chức quan tôn giáo này. Ở điểm này, ông cũng là nhà cải cách rất lớn.
Yoritomo mở ra nền chính trị “võ gia”
Minamoto Yoritomo, với tư cách một “cột trụ võ sĩ,” là một chính khách đồng thời là võ tướng đã gây dựng nên nền chính trị võ gia. Ông hầu như chỉ ở Kamakura, chứ ít khi ra chiến trường. Cả đời ông chỉ vào kinh có hai lần.
Là võ tướng sáng lập ra chính quyền, song Yoritomo không có những truyền thuyết hùng tráng. Cho nên ngay thời nay, sự hâm mộ ông cũng nhạt nhẽo. Trái lại, các em ông, những người đã thực sự chiến đấu, nhất là Yoshitsune thì có rất nhiều đề tài để nói đến và rất được người ta hâm mộ. Thế nhưng, nếu nhìn vào sự thực rằng, sau khi đã định Kamakura làm đất đóng mạc phủ, ông giữ vững ở đó, nuôi dưỡng thực lực trong lúc sai khiến người khác, để sau này triển khai nền chính trị võ gia mới mẻ, thì ta thấy chính Yoritomo mới thật là nhân vật lớn. Một nhân vật lớn như vậy lại có thêm tính nghi kỵ và lòng tàn nhẫn nữa. Ông đã giết hai em, là Noritomo và Yoshitsune, cũng như nhiều người họ hàng thân thích khác nữa.
Kết quả là Yoritomo có rất ít con cháu và thân thích. Ðến đời thứ ba thì máu mủ ruột thịt bị đứt đoạn. Thêm nữa, ông đã tru diệt nhiều công thần đã đóng góp vào sự nghiệp xây dựng mạc phủ Kamakura. Ðó cũng là thêm một lý do khiến cho họ Hojo đã thành phụ chính, tức là nắm được quyền chấp chính vậy.
Là một nhân vật lịch sử, Yoritomo tính tình mờ ám, âm hiểm. Ðó là điểm giống những bậc anh hùng đã lập ra vương triều trên khắp thế giới. Có lẽ tính tình đa nghi, âm hiểm chính là điều kiện để duy trì quyền lực lâu dài chăng.
Yoritomo nắm được quyền lực, lập ra mạc phủ ở Kamakura. Ông sát hại các tướng đã thực sự chiến đấu thành công như Yoshitsune. Sự việc này đã uất tích thành lòng thương tiếc kẻ anh hùng bạc mệnh, hay như Yoshikawa Eiji[16] nói “anh hùng hoại diệt[17]” vậy. Xem như vậy thì cái bản chất của người Nhật hay ca tụng những người nỗ lực mà không thành công, có lẽ cũng bắt nguồn từ ảnh hưởng của Yoritomo đối với nền văn hóa Nhật Bản.
Sau Yoshitsune còn có nhiều “anh hùng hoại diệt” trong lịch sử Nhật Bản. Ðiển hình là Sanada Yukimura và các nghĩa sĩ Ako (Ako Roshi) trong tích Chushingura. Nhất là những nghĩa sĩ này, sau khi trả được thù cho chúa rồi thì đều phải tự mổ bụng, và dòng họ Asano, chúa của họ , cũng không phục hưng được. Nghĩa là, họ đã làm cho mọi người càng thêm bất hạnh. Ðúng là những “anh hùng hoại diệt.”
Minamoto Yoritomo đã làm nên sự nghiệp vĩ đại, mà từ xưa đến nay ít được người ta hâm mộ. Vì vậy mà bậc anh hùng hoại diệt như Yoshitsune mới sinh ra.
Còn một điểm nữa không thể bỏ qua được đối với vai trò lịch sử của Yoritomo, là ảnh hưởng lớn ông đã để lại đối với quan niệm giai cấp của Nhật Bản. Như đã nói ở đầu chương, ở thời Heian, võ sĩ samurai bị gọi là bọn “thầy chùa sát sinh.” Ðám võ sĩ như vậy, sau khi đã nắm được quyền lực, đã hoàn thành sự nghiệp “hạ khắc thượng[18]” rồi, đã không tự mình trở thành quý tộc, mà trái lại đã để nguyên triều đình và công khanh. Nói cách khác họ đã phân tách rõ rệt “địa vị” và “quyền lực” vậy.
Sự việc này tương tự như tư tưởng “cánh mạng vinh dự[19]” ở Anh hay tư tưởng độc lập của Mỹ, tức là tư tưởng cách mạng theo đó những người nắm hiện trường sản xuất, giữ quyền chính trị. Nếu coi võ sĩ samurai đương thời là những người kinh doanh nông trại, thì sự tương đồng vừa nói không phải là vô căn cứ.
Nakagawa Yatsuhiro viết rằng: Trong bộ luật điển “Go-Seibai (Joei) Shikimoku[20]” của thời Kamakura có tư tưởng giống như bản tuyên ngôn độc lập của Mỹ. Nếu chỉ nhìn vào sự kiện là hiện thực đã được phản ánh trong cơ cấu thống trị, thì lời viết này cũng có phần chí lý; nghĩa là, muốn triệt để phản ánh hiện thực, thì nên bảo lưu toàn bộ trạng thái phi hiện thực của hình thức cũ. Cái khôn ngoan có tính cách Nhật Bản đó đã sinh ra từ Minamoto Yoritomo.
Người nắm quyền lực lớn Hojo Masako xuất hiện
Nhìn từ Yoritomo thì chuyện sau đây là dông dài. Nhưng không thể không nói sơ qua về Hojo Masako, vợ Yoritomo.
Khi Yoritomo bị Heike bắt, đày ra Izu, thì người giám thị ông, là Hojo Tokimasa, trông ông có tương lai nên đã đem con gái gả cho. Ðó là Masako. Thật ra, theo sách Gempei Seisuiki thì chính Masako đã theo Yorimoto mặc dầu bi cha phản đối. Song có lẽ vì nhiệm vụ, sợ bị Heike nhòm ngỏ, nên bề ngoài đã phải làm như vậy chăng. Cho rằng vì yêu Yoritomo nên Masako đã chạy theo chàng, thì sự kiện Tokimasa phản đối là không đúng sự thật, xét quan hệ giữa Yoritomo và Tokimasa sau này.
Nhật Bản là nước có truyền thống vợ chồng khác họ, cho nên Masako không thành Minamoto Masako mà vẫn là Hojo Masako. Bà Masako này đã bắt đầu hoạt động và được gọi là “Nữ tướng shogun” là kể từ sau khi Yorimoto mất.
Khi Yoritomo còn sống, bà đã ra lệnh cho thủ hạ đốt nhà vợ bé của Yoritomo. Ngay Yoritomo cũng không ngăn nổi việc ấy, thì đủ biết bà là người vợ không vừa, song lúc đó bà chưa ra mặt làm chính trị.
Chỉ có một lần trong sinh thời Yoritomo, bà đã làm chính trị. Ðó là năm 1195, nhân Yoritomo vào kinh để làm lễ ở chùa Todai-ji, Masako cũng đồng hành. Bà đã gặp bà ái phi của pháp hoàng Go-Shirakawa (bà này sau khi pháp hoàng mất rồi, vẫn nắm quyền hành ngấm ngầm), bày kế đưa con gái trưởng của bà và Yoritomo, là Ohime vào làm vợ vua Go-Toba. Taira Kiyomori cũng đã tìm cách kết hợp công khanh với võ sĩ song không thành.
Tiếc rằng Ohime đã mất năm 1197, nên kế hoạch không thành. Sau đó, cũng còn nhiều kế hoạch khác nữa, song năm 1199 Yoritomo mất và Masako xuất gia đi tu. Thật ra, sau đây mới là thời kỳ Masako hoạt động mạnh.
Trước nhất, cùng với cha là Hojo Tokimasa, bà đã đưa con trai của Yoritomo và bà, tên là Yoriie lên làm mạc tướng. Bố vợ Yori’ie tức là họ Hiki dần dần có thế lực, nên hai bên, một bên là họ Hojo bên kia là họ Hiki, đã đối lập với nhau kịch liệt.
Lấy cớ để tránh sự độc tài của mạc tướng, bà đã lập ra chế độ “hợp nghị” gồm có 13 người, kể cả cha là Hojo Tokimasa, em là Yoshitoki, và những người khác như Oe Hiromoto, Hiki Yoshikazu, tức là những người có thế lực lớn. Bằng cách này, Masako đã đoạt được quyền của con trai, là mạc tướng Yoriie, người mà vợ nói sao cũng nghe vậy. Nghĩa là bà đã tước cái quyền ngoài luật của mạc tường bằng một nội quy của 13 người bất kể luật lệnh đã có. Một lần hình thức và thực chất đã được tách riêng ra rồi, thì quyền lực sẽ được phân tán vô hạn định xuống hạ tầng. Masako là người đầu tiên thực hành điều này.
Năm 1203 khi Yoriie mắc bệnh nặng thì bà chia đôi quyền hành ra cho con trai của Yoriie, tức là Kazuhata và con trai thứ của mình, là Sanetomo. Việc này làm phẫn nộ Hiki Yoshikazu, tức là cha ruột của người con dâu bị Masako ghét, tức là mẹ đẻ của Kazuhata. Masako chỉ chờ có thế để kết hợp với gia đình cha ruột của mình tức là họ Hojo, tiêu diệt dòng họ Hiki.
Tiếp theo, bà giết luôn cả cháu nội của mình (Kazuhata), bắt con trai trưởng là Yoriie lúc ấy đã khỏi bệnh, xuất gia đi tu, rồi giam lỏng ở chùa Tu thiền tự (Shuzenji). Việc này về sau đã trở thành cốt truyện của bản kịch nổi tiếng “Sự tích Tu Thiền Tự” của Okamoto Kido (1872-1939). Bà cho con thứ là Sanetomo lên làm mạc tướng, cho cha là Tokimasa làm phụ chính. Nghĩa là bà yêu quyền hành hơn con cháu, hoặc là bà coi họ hàng mình trọng hơn cả chăng.
Thêm nữa, bà mưu đồ với người vú nuôi thượng hoàng Go-Toba, là Fujiwara Kenshi, (tước Khanh nhị vị[21]), hứa hẹn với nhau sẽ đưa hoàng tử Yorihito, con thượng hoàng Go-Toba lên làm mạc tường kế vị Sanetomo. Nghĩa là hai bà xúc tiến vấn đề kết hợp giữa triều đình và mạc phủ vậy.
Vì vậy mà tuy đã xuất gia đi tu, song Masako đã được phong tước “Tùng nhị vị.” Bà được gọi là “Nữ mạc tướng,” chính là vì bà đã có tước vị ngang hàng với chồng làm Chinh Di Ðại Tướng Quân[22] vậy.
Thời ấy việc phụ nữ mưu đồ với nhau là chuyện thường, nhưng trong số những phụ nữ như vậy thì Masako là người thành công nhất, đáng mặt là thủy tổ của “bà mẹ ngoáo ộp.”
Sách Gukansho có câu viết mỉa mai rằng: “Con gái Tokimasa, mẹ Sanetomo và Yoriie có sống sót mới có đời nay!” Rồi cùng với bà Khanh nhị vị có thế lực to lớn ở kinh đô, thì sách viết: “Nhờ có đàn bà tô điểm cho, thì nước Nhật mới thành.” Ý nói nước Nhật phải nhờ nữ giới giúp cho thì nền chính trị mới được hoàn chỉnh.
Masako đòi được một hoàng tử từ kinh đô hạ mình xuống làm rể mình, song sự thế đổi thay khiến điều đó bị khước từ. Kết cục, thượng hoàng Go-Toba đã đề cử Yoritsune, một người trong dòng họ Minamoto bà con xa của Yoritomo lên làm mạc tướng, tức là khác với lời hứa. Yoritsune lúc đó mới lên 2 tuổi, nên quyền hành đã do Masako và cha ruột là Hojo Tokimasa nắm giữ.
Sau khi Tokimasa mất thì em Masako tức là Yoshitoki lên làm phụ chính. Sau đó, lại là con Yoshitoki lên làm phụ chính. Cứ như vậy, người họ Hojo liên tiếp lên làm phụ chính nắm giữ thực quyền.
Hoạt động nổi bật nhất của Hojo Masako là lúc thượng hoàng Go-Toba bực mình với quyền thế của Kamakura, đã khởi loạn Jokyu năm 1221.
Masako diễn thuyết kêu gọi võ sĩ samurai: “Chớ quên ơn của họ Minamoto. Chớ theo vua, hãy theo mạc phủ.” rồi gửi quân vào kinh đô bắt tất cả từ thượng hoàng Go-Toba trở xuống, đem đày ra hải đảo. Sự việc này đã làm cho quyền thế mạc phủ không thể lay chuyển được nữa. Thực quyền như vậy đã vào tay Masako và dòng họ Hojo. Ðó là hình ảnh Masako đã được lưu truyền lại.
Mặc dù nói là Hojo Masako đã nắm giữ thực quyền ghê gớm, song Masako đã thực sự lèo lái chính trị, hay cha bà (Tokimasa) và em bà (Yoshitoki), hay cháu bà (Yasutoki) đã nắm quyền ấy, thì hãy còn là một nghi vấn. Duy, có một điều chắc chắn là, vì có Masako nên Tokimasa hay Yasutoki mới chiếm được vị trí trung tâm của quyền lực. Lại nữa, cứ nhìn vào tư thế của ba đời phụ chính từ Tokimasa qua Yoshitoki tới Yasutoki, rồi chuyện âm mưu với bà Khanh nhị vị, rồi diễn thuyết khi có loạn Jokyu, người ta có cảm tưởng rằng quả thật Masako là vai chính. Không còn nghi ngờ gì nữa là sau khi Yoritomo chết, người đàn bà này đã nắm quyền lớn, đã có quan hệ tới lịch sử nước Nhật vậy.
Quan chức ngoài luật lệnh đã sinh ra cấu trúc hai tầng
Ở đây, điều quan trọng là tại sao Masako đã có thể làm như vậy được?
Ðó là vì chính Yoritomo, với tư cách tổng tư lệnh quân đội miền Ðông (Chinh Di Ðại Tướng Quân), tức là một quan chức đứng ngoài quy định của bộ luật lệnh Ðại Bảo[23], đã chế ra một phương pháp nắm quyền chính trị bất thường bằng cách tự xưng mình là “cột trụ của samurai” toàn quốc. Cái phương pháp bất thường này lại được Masako phát triển thêm một bước nữa, đưa quyền hành của mạc tướng xuống hàng chánh văn phòng, tức là phụ chính. Nghĩa là, mặc dù quyền hành vốn dĩ thuộc vua và dưới vua còn có “nhị quan bát tỉnh” nữa, song cơ chế này vẫn được giữ nguyên vẹn và thực quyền đã được trao vào tay tổng tư lệnh quân đội miền Ðông qua bộ tư lệnh của người ấy, gọi là “mạc phủ,” làm thành một chính phủ thực chất (de facto). Thế rồi, chánh văn phòng bộ tư lệnh lại nắm lấy thực quyền bằng cách đưa một đứa bé mới hai tuổi vào địa vị tổng tư lệnh quân đội miền Ðông để hình thức hóa địa vị này đi. Làm cho sự việc này có thể xẩy ra được không ai khác hơn là chính Minamoto Yoritomo vậy.
Ðiều trên đã ảnh hưởng lớn tới lịch sử Nhật Bản, đã biến thành truyền thống là chánh văn phòng lại nắm thực quyền hơn bộ trưởng mà không ai coi sự việc ấy là kỳ lạ nữa. Không cứ gì các cơ quan chính phủ đâu, cả xí nghiệp tư nhân cũng vậy, những câu nói cửa miệng như: “Ông tổng giám đốc thì dẫu có nói cũng chẳng hiểu đâu! Phải nói với ông phó nọ, ông phó kia cơ!” hoặc “Không, ông phó đó cũng chẳng hiểu đâu mà chính phải nói với ông trưởng phòng tổng giám đốc ngồi bên cạnh kia!” không còn ai coi là kỳ lạ nữa.
Minaamoto Yoritomo là người đã mở màn cho lịch sử “Cấu trúc quyền lực hai tầng” kiểu Nhật Bản. Sau đó Masako cùng những người của họ Hojo đã phát triển cấu trúc đó thêm một bước nữa. Với ý nghĩa này, Hojo Masako cũng là một diễn viên phụ không thể nào quên được vậy.
[1] Mạc phủ: Bakufu. Mạc phủ vốn chỉ là chỗ quây màn, dựng lều làm bản doanh tại trận tiền của một tướng lãnh. Song, ở Nhật Bản, từ mạc phủ được dùng để chỉ cơ chế quyền lực chính trị toàn quốc đứng đầu bởi một vị tướng (trong sách này thường viết là mạc tướng, hoặc tướng shogun hoặc shogun) được vua phong cho, thường là Chinh Di Ðại Tướng Quân. Ở Nhật Bản trong thời kỳ có mạc phủ, Nhật hoàng thực chất chỉ là làm vì, mà tướng quân shogun mới thực sự thống trị toàn quốc như là một ông vua. Vì thế, có nhiều sách do người phương Tây viết về Nhật Bản thời kỳ có mạc phủ, mạc tướng thường được dịch là King (vua), trong khi đó Nhật hoàng dịch là Emperor (hoàng đế), mặc dù chỉ là một vị hoàng đế vô quyền.
[2] Edo, là nói thời kỳ ngót 300 năm (từ 1603 tới 1867) dòng chúa Tokugawa mở mạc phủ ờ thành Edo (tức Tokyo ngày nay) tiếm quyền cai trị nước Nhật của Nhật hoàng.
[3] Nhị quan bát tỉnh, tức là chế độ gồm có hai chức quan và tám “tỉnh”, tức là tám bộ. Hai chức quan là “thần kỳ quan,” trông coi vấn đề tế lễ, và “thái chính quan,” đảm đương việc trị nước. Tám “tỉnh” gồm có Trung Vụ tỉnh (lo việc chiếu sớ, nhân sự, hộ tịch, tô thuế,…), Thức Bộ tỉnh (nghi thức, điển lễ, tặng thưởng,…), Trị Bộ tỉnh (hôn lễ, tang tế, ngoại giao,…), Dân Bộ tỉnh (dân chính, tài chính, thuế khóa,…), Binh Bộ tỉnh (quân chính, binh mã, binh khí,…), Hình Bộ tỉnh (tư pháp), Ðại Tàng tỉnh (kho bạc) và Cung Nội tỉnh (việc cung đình).
[4] Quan tước chia làm 8 “vị”. Mỗi “vị” còn chia ra Chính và Tùng, Thượng và Hạ.Tùng Ngũ Vị Hạ là tước vị phong cho đích tử của công hầu khi tới tuổi thành niên. Thời xưa, tuổi thành niên thường thấp hơn thời nay. Nội tàng nhân là một chức quan coi kho của vua.
[5] Thái thượng hoàng đã đi tu. Trong bản NXB CTQG lời chú này để ở sau trang này.
[6] Cuộc phân tranh giữa họ Minamoto và họ Taira.
[7] Kiểu Quan Công tha Tào Tháo ở Hoa Dung Tiểu Lộ chăng?
[8] Lãnh chúa là từ gọi chung những chúa tể hoặc sứ quân cai trị một vùng đất nhỏ, một tiểu quốc.
[9] Kanto, là khu vực gồm Thành Phố Tokyo và sáu tỉnh bao quanh, tức là Ibaraki, Tochigi, Gunma, Saitama, Chiba và Kanagawa.
[10] Sở công văn là cơ quan tương với văn phòng hành chánh, và sở vấn chú là tòa án. Ðặt ra những công sở như vậy là chứng tỏ đã nắm được quyền cai trị chính thức.
[11] Quan bạch, là chức quan được phép xem trước sớ sắc rồi mới tâu vua. Tên quan chức này là từ sách Hán Thư (truyện Hoắc Quang): “chư sự giai tiên quan bạch quang, nhiên hậu tấu ngự thiên tử,” nghĩa là mọi sự việc đều được xem trước cho rõ, rồi sau đó mới tâu lên thiên tử.
[12] Nội các của thủ tướng Kaifu, từ 8/10/1989 tới 5/11/1991.
[13] Việc xem lại (sửa lại) thuế tiêu thụ, sẽ được làm một cách mạnh dạn. Nghĩa là chưa hứa sửa chữa gì cả.
[14] Sẽ có những xem lại (sửa lại) mạnh dạn cho thuế tiêu thụ. Rõ ràng là hứa sẽ có những cải cách mạnh dạn về thuế tiêu thụ. Bản NXB CTQG không có 2 từ trong ngoặc “(có những).”
[15] Cũng gọi là Jurakutei.
[16] Một nhà tiểu thuyết lớn, chuyên viết tiểu thuyết lịch sử.
[17] Nguyên văn tiếng Nhật là Hametsu no Eiyu, đọc âm chữ Nho là Anh hùng Phá diệt.
[18] Hạ khắc thượng (Gekokujo), tức là kẻ dưới khắc phục người trên.
[19] Cánh mạng vinh dự (Glorious Revolution): Sự kiện lịch sử Anh theo đó khi vua James II độc đoán định cho cựu giáo phục hưng, những lãnh tụ quốc hội cầu cứu công chúa Mary theo tân giáo và quận công William năm 1688. Năm sau, Mary II và WIlliam III lên ngôi vua, ban hành Hiến chương nhân quyền (Bill of Rights).
[20] Luật điển nói ở đây là của niên hiệu Joei (Trinh Vĩnh, năm 1233) gồm có 51 điều.
[21] Tước gồm có tám vị. Thường ra, tam vị trở lên là hàng Công, Khanh.
[22] Chinh di đại tướng quân là “chức vị”, trong khi đó “Tùng nhị vị” là tước vị. Chẳng hạn, trong quân đội, một đại úy trung đội trưởng, thì đại úy là tước vị còn trung đội trường là chức vị.
[23] Ðại Bảo luật lệnh, soạn ra năm Ðại Bảo nguyên niên (701), gồm 6 quyển luật và 11 quyển lệnh.