Chương II : Hikaru Genji Người mẫu chính khách thanh nhã
Hikaru Genji có thật không?
Không cần nói, ai cũng biết Hikaru Genji là nhân vật tưởng tượng, vai chính của Truyện Genji (Genji Monogatari)[1].
Tại sao một nhân vật tưởng tượng lại có thể là một người đã lập ra nước Nhật được? Người như vậy có ảnh hưởng gì tới thời nay? Hẳn có nhiều độc giả cảm thấy lạ lùng, ngờ vực, cho nên chúng tôi xin trình bày điểm này trước hết.
Thời Taisho[2] và Showa[3] có một sử gia tên tuổi, là tiến sĩ Tsuda Soukichi, nổi tiếng với lối nghiên cứu thực chứng. Triệt để gạt bỏ những tình cảm lãng mạn, ông đã thẳng thắn tuyên bố trong tác phẩm của ông rằng những gì viết trong Kojiki (Cổ Sự Ký) và Nihon Shoki (Nhật Bản Thư Kỷ) đều không là sự thật, mà chỉ là huyền thoại. Nói cách khác, trong tác phẩm của ông nhan đề “Nghiên cứu lịch sử đời thần thánh,” ông đã chỉ trích thuyết “thiên tôn giáng lâm[4]” bằng cách nói rằng hai sách Ký Kỷ vừa kể, chẳng qua đã được soạn ra căn cứ vào những tư liệu cổ, “Ðế Kỷ” và “Cựu Từ,” tức là những tư liệu ghi chép lại những truyện cổ lưu truyền trong cung đình nhằm chính đáng hóa chế độ “thiên hoàng,” mà thôi.
Ðến thập kỷ Showa thứ X (1926-1935), ông bị nhóm tôn thờ chủ nghĩa “Nhật Bản quốc túy” phê bình là ông đã “phạm thượng,” đã xâm phạm tới sự “tôn nghiêm của hoàng tộc.” Họ nói “Tsuda viết nhảm, dám nghi ngờ sự hình thành của hoàng tộc.” Họ đã thưa kiện ông về tội vi phạm luật xuất bản.
Rút cục, vì lý do “thời hiệu” nên ông đã được “miễn tố,” song trước tòa án, ông đã có lời biện minh tuyệt diệu như sau: “Truyện thần thoại Nhật Bản không phải là đã kể lại những sự thật lịch sử, nhưng đáng được lưu ý về cấu trúc tư tưởng!”
Nói cách khác, “Mọi người tin là như vậy cho nên về mặt tư tưởng, đó là một cấu trúc không phủ nhận được. Bản thân ông cũng không phủ nhận. Tuy nhiên, đó không phải là những sự thật đã diễn ra trong lịch sử. Chẳng hạn, trên trời làm gì có đất đai, vì thế làm gì có người từ trên trời rơi xuống! Do đó, đây chỉ là truyện thần thoại, và có là thần thoại thì những lời thuật của Cổ Sự Ký mới đứng vững được.”
Ở vào thời đó thì việc làm của ông như vậy là chuyện không thể tránh được, song đó là một cách nói chạy, nói lẩn tránh khá gò bó. Ðể lấy một thí dụ điển hình chứng tỏ rằng một cấu trúc trong tư tưởng tuy không phải là một sự thật lịch sử, vẫn có thể tồn tại được, tiến sĩ Tsuda đã viện dẫn vai Hikaru Genji.
Nghĩa là, Hikaru Genji là nhân vật tưởng tượng được bịa ra trong Truyện Genji, cho nên Truyện Genji không phải là sự thực lịch sử. Thế nhưng, một chính khách quý tộc “hao hao” như vậy đã có tồn tại ở thời Heian, thì rõ ràng lại là một sự thực.
Trên thực tế, ngày nay không còn thấy có “nhân vật” nào đủ truyền lại được cái mẫu người quý tộc hoặc chính trị gia quý tộc thời Heian như Hikaru Genji nữa.
Với ý nghĩa trên, thì Hikaru Genji là một nhân vật tưởng tượng và sự tồn tại của một nhân vật như vậy không phải là một sự kiện lịch sử. Song có thể nói rằng cái cấu trúc lịch sử có ảnh hưởng tới người Nhật như vậy, thì đã thực sự tồn tại. Ðây là lời thuyết minh của tiến sĩ Tsuda.
Ðúng như vậy, khi chúng ta hình dung con người quý tộc thời Heian, tưởng tượng lối sinh hoạt hay thế giới tinh thần của họ, thì Truyện Genji là đại biểu dễ hiểu nhất. Vì thế, nó đã có ảnh hưởng lớn tới lối suy tư hay tiêu chuẩn giá trị của người Nhật ngày nay.
Bởi thế, nhân vật tưởng tượng do Murasaki Shikibu sáng tạo ra, đã được chọn làm một trong số “Mười hai người lập ra nước Nhật” vậy.
Ðại biểu cho lớp người quý tộc thời đại Heian
Vậy nhân vật chính Hikaru Genji mô tả trong Truyện Genji quá quen biết này, là con người có lai lịch ra sao? So với sự kiện tên Hikaru Genji đã trở nên rất quen thuộc, thì lai lịch, sự tích của người ấy lại ít được biết tới.
Người ta cho rằng Hikaru Genji đã sống vào thời đại cũ hơn thời đại tác giả Murasaki Shikibu chừng vài chục năm. Nói kiểu ngày nay, sự kiện này tựa hồ như việc một tác giả thời hậu chiến viết lại cảnh tượng diễn ra ở thời kỳ đầu của đời vua Showa (niên hiệu Showa: 1925-1989) vậy. Có khác chăng là thời ấy không có sự tăng trưởng kinh tế cao độ, không có những biến đổi kỹ thuật, nên dạng thức sinh hoạt không thay đổi mấy. Nói về niên hiệu thì đó là lúc niên hiệu Engi (đọc là ên-ghi, 901-923) đổi sang niên hiệu Tenryaku (947-957), nghĩa là khoảng từ năm 901 tới năm 957. Truyện Genji lấy thời đại đó làm sân khấu, đã có vài nhân vật tưởng tượng chủ yếu như sau xuất hiện.
Trước hết là vua Kiritsubo. Người con trai thứ hai được nưng như trứng hứng như hoa của nhà vua, chính là hoàng tử Hikaru. Thân mẫu của cậu tuy là cung nữ của vua Kiritsubo, song vốn xuất thân hèn hạ, nên cậu bị giáng xuống hàng thần hạ mang họ Genji. Rồi vì đẹp trai, cậu được gọi là Hikaru Genji[5]. Cậu yêu hết cô gái nọ tới cô gái kia, rồi sau cùng rơi vào mối tình đau khổ với một người đàn bà giống địa vị mẹ cậu là cung nữ Fujitsubo. Mà Fujitsubo lại là ái phi của vua cha. Cuộc tình ngang trái đã sinh ra một hoàng tử “hoang.” Người con hoang này lại được nuôi làm con vua Kiritsubo rồi sau này lên ngôi thành vua Reizei.
Về sau, người anh khác mẹ của Genji lên ngôi, tức là vua Suzaku, thì sau khi vua Kiritsubo mất đi, Genji bị ngược đãi và bị lưu đầy hai năm ở vùng Suma, Akashi. Ðây là “đoạn Suma – Akashi” mô tả hoàng tử trong cảnh bất hạnh.
Thế rồi vua Suzaku và mẫu hậu, tức là bà thái hậu Hoằng Huy Ðiện[6] lâm bệnh, nên thế lực yếu đi và nhờ đó, Genji mới về kinh được và lại nắm được quyền hành ở trung ương.
Sau đó, ở địa vị người săn sóc ấu chúa Reizei, Genji đã lần lượt thăng chức tới Naidaijin[7], rồi Dajodaijin[8]. Ngày một có thêm vây cánh, Genji mới xây dinh thự riêng cho mình đặt tên là Rokujo-in. Rồi Genji cho người mình sủng ái nhất tức là Murasaki no Ue, cùng những người đàn bà khác đã có quan hệ với mình, ở đó. Ðịa vị của Genji lên tới bậc tương tự như thái thượng hoàng. Ðến đây là hết phần Một của truyện.
Trong phần Hai, Hikaru Genji ở tuổi sơ lão đã tái hôn với công chúa thứ ba, con gái cưng nhất của Suzakuin[9], rồi dần dần về già. Ở đoạn này, Genji trở thành một nhà chính trị có quyền lực lớn.
Trong phần Ba thì con trai của Genji là công tử Kaoru xuất hiện, song ở đây chỉ có Hikaru Genji được chọn, coi đó là người mẫu của lớp nhà chính trị quý tộc thời đại Heian.
Vậy thì, lớp người quý phái thời đại Heian kể từ niên hiệu Engi tới niên hiệu Tenryaku sinh hoạt trong trạng thái như thế nào.
Trước thời này là thời Nara, thời đại mà các hào trưởng lấy hoàng tộc làm trọng tâm cho cuộc tranh giành quyền lực với nhau trong quá trình thành lập của chế độ tập quyền trung ương.
Nhưng sang tới thời Heian, thì nhà vua được đôn lên trên “mây” và ở dưới thì dòng họ Fujiwara trở thành trung tâm quyền lực của cái gọi là thời đại quý tộc. Giới quý tộc này có trang ấp, đồn điền, nông trại ở khắp nước. Quyền quản lý các trang ấp như vậy được trao cho đám quản gia mà sau này trở thành võ sĩ[10]. Các địa chủ không sống ở trang ấp mà chỉ ngồi mát thâu hoa lợi hàng năm.
Ðám quản gia này được các quý tộc ủy thác cho quyền hành, đã dùng bạo lực bóc lột chiếm đoạt quá nửa hoa lợi, coi đó là phí tổn quản lý.
Quý tộc và quản gia như vậy là có quan hệ nương tựa lẫn nhau. Sự kiện này tương tự như quan hệ ngày nay giữa những bà quả phụ thừa hưởng tài sản chứng khoán lớn với đám người kinh doanh đắc lực vậy.
Nói như vậy không phải là giới quý tộc thời Heian chỉ ngồi chơi xơi nước. Ngược lại, tuy ở kinh đô, họ có nhiệm vụ “chính trị” trọng yếu là đảm đương việc quốc chính, dẹp loạn. Vấn đề là nội dung công tác “chính trị” đó của họ.
Việc làm của một chính khách quý tộc
Thời đó, Nhật Bản có tổ chức triều đình rập khuôn theo kiểu nhà Ðường bên Trung Hoa nên có thể chế luật lệnh đàng hoàng. Ở dưới chức Dajodaijin thì có Sadaijin[11], Udaijin[12], Dainagon[13], Shonagon[14], v.v.. Những quan chức lớn này thì chỉ có dòng dõi nhà vua, hoặc con cháu bốn họ Gen Pei Tô Kitsu[15], đảm đương mà thôi.
Vậy thì, nền chính trị do những người này nắm giữ là như thế nào? Từ tướng quốc trở xuống, các nhà chính trị quý tộc này làm gì? Những điều này được thấy rất rõ ở nhân vật Hikaru Genji.
Như đã kể ở trên, Hikaru là con vua, và nhờ đẹp trai nên chàng đã yêu hết người này tới người khác. Trong khi đó, địa vị của chàng cũng tăng dần lên. Song lúc vua cha mất đi thì chàng bị lôi cuốn vào cuộc tranh giành quyền lực giữa các nhà quý tộc, rồi bị lưu đày ra xứ Suma, xứ Akashi.
Ở trong tình huống này, ai chẳng chán ngán cho cái không may của mình và oán hận những kẻ địch chính trị của mình? Hoặc, để trở lại chính trường, ai chẳng sẽ triển khai cuộc vận động chính trị, trình bầy đường lối chính trị của mình và kết nạp đồng chí? Nhưng Hikaru hầu như chẳng làm gì cả! Trong cả tập truyện dài như vậy, người ta không hề thấy gì viết về chính kiến của Hikaru, về chính sách mà Hikaru muốn thực hiện, mặc dầu Hikaru đã làm quan đại thần lâu năm và đã leo lên tới địa vị tướng quốc.
Ngay cả sự kiện Hikaru được gọi từ vùng lưu đày Suma – Akashi về kinh rồi lại làm quan to nữa, cũng chẳng phải là kết quả của một cuộc vận động chính trị nào cả, mà chỉ do một sự thay đổi bè phái ở kinh đô mà thôi.
Tuy nhiên, “đoạn Suma – Akashi” kể lại cuộc sống trong thời kỳ bị lưu đầy, thì lại có rất nhiều điểm đáng tham khảo. Một điểm là ngay trong trạng huống bất hạnh như vậy mà Hikaru vẫn không hề bị trụy lạc, không hề làm phản!
Xa kinh đô, buồn về đời sống nhà quê tẻ nhạt, Hikaru đã than khóc nỗi niềm nhớ kinh đô và cảnh ngộ phải kéo dài cuộc sinh hoạt chán nản này, nhưng không hề có ý định làm phản, cũng không hề oán hận gì cả. Quý tộc thời đó sống biệt lập với những thành phần khác, và chỉ đắm chìm trong thế giới của ý thức thiện mỹ để khắc phục cái bất mãn của mình. Ðây mới chính là lối sống quý tộc thời đó, mới là nguyên gốc của cái “thanh nhã Nhật Bản” cho tới ngày nay.
Hikaru sau hai năm lưu đày ở vùng Suma – Akashi trở về kinh thì lại càng nắm được địa vị trọng yếu hơn trước. Ðến nỗi, chàng đã leo lên tới bậc tướng quốc, tức là tương đương với chức thủ tướng ngày nay. Hơn thế nữa, là tướng quốc, chàng còn làm Chuẩn Thái thượng hoàng kia.
Là một nhà chính trị ở địa vị cao sang như vậy mà đọc suốt “Truyện Genji” ta không thấy Hikaru làm gì “có vẻ chính trị” cả. Trong cả tập truyện dài của Murasaki Shikibu người ta không thấy nói gì tới vấn đề ngoại giao, quốc phòng hay trị an nào cả. Cũng chẳng thấy có cục diện nào thảo luận về vấn đề tài chính hay chế độ thuế khóa. Thế mà, người đọc vẫn không lấy thế làm lạ lùng, kỳ cục. Ngược lại, người ta gật đầu nhìn nhận rằng, với quý tộc thời Heian thì có khi như vậy là phải.
Nhật Bản ở thời kỳ này về mặt “công,” thì đường lối “bế môn tỏa cảng” được áp dụng, sau khi bỏ lệ gửi sứ sang nhà Ðường, do đề nghị của Sugawara Michizane.
Kể từ khi Thái tử Shotoku bắt đầu gửi sứ sang nhà Tùy, rồi khi nhà Ðường thay thế nhà Tùy, thì thông lệ gửi sứ sang Trung Hoa đã kéo dài trong suốt thời đại Nara cho tới đầu thời đại Heian. Song từ năm 857, nhà Ðường có nội loạn và không thấy có tiến bộ nữa về mặt kỹ thuật cũng như văn hóa trước con mắt người Nhật thời đó, nên việc gửi sứ sang đó đã bị gián đoạn lâu năm. Cho tới năm 894, Sugawara Michizane mới đề nghị rằng “dẫu có sang nhà Ðường, thì cũng chẳng mang được gì về đáng cho ta học hỏi,” nên lệ gửi sứ sang Trung Hoa đã bị bãi bỏ hẳn.
Trên thực tế, từ loạn Vương Tiên Chi – Hoàng Sào năm 875 trở đi, thì Ðường triều bị suy thoái dần và rơi vào tình trạng nội loạn liên miên, khiến mất cả năng lực thống suất. Cho nên dẫu cho có tới kinh đô Trường An đi chăng nữa thì cũng chẳng mang về được văn vật nào đáng kể cả! Ít nhất đây cũng là cái nhìn của người Nhật thời đó. Thực ra, thời kỳ gọi là “Ðường mạt ngũ đại” này mới chính là lúc sắp thoát thai của đời Tống, thời kỳ “cận hiện đại” với những kỹ thuật mới như “than đá,” “kim nam châm,” “thuốc nổ,” v.v.. Thế mà người Nhật quý tộc thời Heian đã hoàn toàn không quan tâm tới những kỹ thuật công nghiệp như vậy.
Ở trong nội bộ nước Nhật thì thời đại đó chẳng phải là thời đại thong dong gì cả. Quyền thế và võ lực của giới quý tộc Heian đã yếu đi, khiến miền đông thì có loạn Taira no Masakado (935-940), miền tây có loạn Fujiwara Sumitomo (938-941). Hikaru Genji đã lên làm tướng quốc trước đó, song vẫn sống bình thản chứ không thấy lo lắng gì về vấn đề trị an hoặc tài chính cả.
Ấy thế mà, cả người đọc cũng như người bình luận “Truyện Genji” đều hiếm có ai phê bình Hikaru là nhà chính trị vô vi vô tài. Ngược lại, sự kiện những vấn đề hiện thực như trị an hay tài chính thì không phải do giới quý tộc trực tiếp nắm giữ, mà đã được giao phó cho các quản gia ở trang ấp, tức là những người sau này trở thành giai cấp võ sĩ samurai, là điều coi là đương nhiên vậy.
Ðiểm gốc của khái niệm “thanh nhã”
Vậy thì, công việc của người quý tộc thời đó trong chính phủ trung ương do họ chi phối, là gì? Công việc lớn nhất của họ là tiêu dùng tiền thuế do những người quản lý nông trại đã trưng thu, vào những phí tổn ở kinh đô cho việc cử hành những nghi thức Phật giáo hay Thần đạo nhằm truyền bá cái phong thái, cái dạng thức của nhà nước ra toàn quốc, với mục đích giữ được cái phong cách Nhật Bản, duy trì được sự thống nhất nhân tâm và văn hóa trong toàn quốc. Vấn đề trị an hay duy trì sản vật và ngành nghề của địa phương nào thì ủy thác cho quyền tự trị của địa phương ấy.
Thời Nara, họ cho mở nhiều đường quốc lộ, cho dựng chùa Quốc Phân Tự[16] ở mỗi địa phương để hoàn thành chế độ tập quyền trung ương. Ðến thời Heian thì quyền hành trung ương bị yếu dần đi, làm cho nền tự trị địa phương biến thành nền “phân lập” (độc lập) địa phương.
Chẳng hạn, ngày nay khi người ta làm một đường cao tốc và nếu người ta quy hoạch một cách hợp lý thì hầu như con đường đó luôn luôn trùng với quốc lộ ngày xưa. Nói cách khác, thời xưa người ta đã lập ra một quốc gia cổ đại với những con đường đáng được gọi là “đường viên đạn” chạy từ kinh đô Nara ra khắp nơi trong nước.
Nhưng đến thời Heian thì những con đường này mất khí thế, rất hiếm người đi lại nữa vì sự di chuyển trên những con đường này trở nên mất thời gian và nguy hiểm. Nói cách khác, Nhật Bản dần dần bước sang thời trung cổ.
Do đó, quyền hạn và quyền lực của chính phủ trung ương bị giảm đi, “giá trị” của chính phủ cũng không lấy gì làm “đắt” cho lắm nữa. Mỗi địa phương đều được phân quyền và lập ra một chính phủ nhỏ bé của mình. Việc làm của các chính trị gia quý tộc chủ yếu là duy trì những nghi thức tôn giáo có tính cách quốc gia để làm mô phạm cho ý thức thiện mỹ của toàn quốc. Có thể nói một cách cực đoan rằng nước Nhật thời đó đã được bảo tồn nhờ một ý thức thiện mỹ chung vậy. Chính ở thời kỳ như vậy mà Hikaru Genji, ở địa vị một chính trị gia, đã làm một “cấu trúc trên mặt tư tưởng.”
Chính phủ trung ương thời đại Heian là một “chính phủ nhỏ,” song việc thu thuế để duy trì một chính phủ nhỏ như vậy cũng không dễ dàng gì. Truyện Genji có những đoạn mô tả cảnh biệt thự hoang tàn của những bậc công khanh nghèo nàn hoặc những nhân vật quý tộc đã suy đồi. Hikaru Genji làm tướng quốc mà không thấy nghiêm chỉnh thảo luận vấn đề cứu tế những nhà quý tộc suy đồi đó. Ngược lại, thái độ của ông là xa lánh, hoặc dẫu có nhìn thấy cũng làm ngơ trước những nhân vật quý tộc đáng thương đó. Ðương nhiên là với thứ dân, ông cũng làm như vậy. Cá nhân ông thì có coi những cảnh tượng đó là tội nghiệp thật, song với tư cách chính trị gia, ông đã không hề nghĩ đến một chính sách phúc lợi nào cho họ.
Tướng quốc Hikaru Genji đã chỉ miệt mài vào thế giới của ý thức đẹp, ý thức thẩm mỹ. Thơ ca hoặc trang phục, cử chỉ hoặc sự xếp đặt chỗ ngồi trên dưới trong nghi lễ, thì thấy thảo luận rất nhiều. Rồi yêu đương và tranh giành trong quan hệ với nữ giới cũng thế. Thật ra, nếu nghĩ rằng chính trị chẳng qua là vấn đề bè phái, vấn đề máu mủ ruột thịt, thì yêu đương nhau cũng là vấn đề chính trị trọng yếu chăng.
Ngày nay, nếu các nhà chính trị không màng gì đến ngoại giao, tài chính, mà chỉ miệt mài với thẩm mỹ, thì sẽ ra sao? Không chừng, bọn quan liêu (công chức), tức là những người tương đương với đám quản gia thời Heian xưa, lại làm cho mọi việc chạy trơn chu hơn cũng nên. Trước đây đã có một thủ tướng Nhật Bản chỉ bận tâm tới cách quàng khăn cổ trong buổi hội kiến với tổng thống Mỹ. Biết đâu ông thủ tướng ấy chẳng là “hậu duệ” của các nhà quý tộc thời Heian? Và nếu nghĩ như vậy, người ta có thể sẽ gật đầu nghĩ thầm: “chí lý!”
Có điều lạ lùng là riêng với nhân vật Hikaru Genji này, thì dù chẳng làm chính trị gì cả, mà không thấy có gì đáng ghét, không bị nghĩ là ngu. Gần đây, từ lập trường nhân quyền của phái nữ, hình như có nhiều người cảm thấy ghê tởm Truyện Hikaru Genji bởi vì có quá nhiều phụ nữ xuất hiện trong truyện. Song ngay với những người như vậy, thì vai chính trị gia Hikaru Genji cũng không đến nỗi bị người ta ghét bỏ. Ðây âu cũng là bởi chàng vốn có “đức” chăng?
Truyện kể Hikaru Genji làm nhân vật điển hình của lớp người quý tộc Heian và được mọi người Nhật biết cho đến ngày nay. Nếu trong lịch sử không có Hikaru Genji, nghĩa là nếu bà Murasaki Shikibu không viết ra Truyện Genji, thì ngày nay chúng ta làm sao biết được chi tiết như vậy về địa vị, về lối sống của lớp người quý tộc Heian.
Thế rồi cái đó đã trở thành hình ảnh của giới quý tộc, hay hơn thế nữa, thành điểm gốc của khái niệm “thanh nhã” của Nhật Bản. Người Nhật thì ngay ngày nay cũng vậy, vẫn chấp nhận những người như Hikaru Genji, dù chỉ là chấp nhận với điều kiện nào đó. Sự kiện Hikaru Genji vẫn có ảnh hưởng lớn tới cách sống hoặc cách đánh giá trong xã hội của người Nhật ngày nay, đủ chứng tỏ Hikaru Genji đáng được đếm là một trong số “Mười hai người lập ra nước Nhật” vậy.
Sự xuất hiện của chính trị gia kiểu “Hikaru Genji”
Ảnh hưởng của “chính trị gia chằng làm gì cả” kiểu Hikaru Genji, đã hiện ra ở đâu và như thế nào trong nước Nhật ngày nay?
Trước nhất là sự phát sinh ra mô hình “chính khách quý tộc kiểu Nhật Bản,” hay là loại “người thanh lịch.”
Ðúng vậy, ở nước Nhật này, thỉnh thoảng người ta lại thấy xuất hiện những chính trị gia kiểu Hikaru Genji. Nghĩa là loại chính trị gia trông tốt mã, tốt người, song chẳng làm gì đáng gọi là làm chính trị, thậm chí chẳng muốn làm gì, chẳng quan tâm gì, chẳng hiểu gì về thực chất của việc chính trị, tài chính phải làm cả.
Ðiển hình là Konoe Fumimaro, người đã lập nội các năm 1937.
Konoe Fumimaro cao 1m 80, ở thời đó như vậy là cao vượt bực, với vóc người hết sức bảnh bao. Ông để râu mép, mặt mũi thanh tú. Hơn tất cả nữa, ông lại là con dòng chính thống của họ Fujiwara, đồng thời lại là công tước. Thật quả là một chính khách quý tộc chính hiệu.
Lúc đó Nhật Bản đang ở vào thời kỳ vô cùng khó khăn: Từ vụ Mãn Châu qua diễn biến 26 tháng 2[17], Nhật Bản đang bị cô lập hóa trên trường quốc tế và tình hình quốc nội thì rối beng. Ðúng lúc đó thì từ mọi giới nổi lên như cồn lời kỳ vọng: “Ngoài Konoe ra, chắc không còn ai có thể trị nổi nước Nhật hiện nay!” Ðúng là người ta đang muốn tìm ở Konoe hình bóng một Hikaru Genji vậy.
Nhiều chính sách được đề ra, nào phong trào Thể chế mới, nào luật Tổng động viên toàn dân, v.v.. Tất cả đều chỉ là những khẩu hiệu, những phiêu ngữ rộng tuếch, không ra ngoài phạm vi ý thức về vẻ đẹp. Dưới quyền một thủ tướng vô vi vô tài như vậy, nền chính trị thực tế là do quân nhân và quan liêu (công chức) thực thi. Thật đúng là phó mặc cho quản gia. Ấy thế mà dân chúng chẳng ai phê phán, chẳng ai chê bai gì cả, đến nỗi Konoe được làm thủ tướng đến ba lần.
Tiếng tăm của Konoe không hề bị suy giảm mặc dầu ông không hề thực sự làm chính trị, chỉ lạm phát khẩu hiệu và làm điệu bộ thôi. Nội các Konoe thứ nhất đã làm cho chiến tranh Nhật-Hoa sa vào bùn lầy, rồi ông buông bỏ chính quyền mà cũng chẳng bị ai chỉ trích gì cả. Ðến năm 1940, ông lại đứng ra lập nội các thứ hai. Với chiêu bài thúc đẩy phong trào Thể chế mới, ông đã lập ra Hội Ðại chính Dực tán, theo đó mọi chính đảng đều giải tán, và tất cả nghị viên đều vui lòng đặt mình dướI quyền chỉ huy của chính trị gia vô vi vô tài Konoe này!
Vì Konoe không có tài chỉ huy, nên thực tế vấn đề chính trị đã phó mặc cho quân nhân Bộ Lục quân, quan chức Bộ Nội vụ và Bộ Kho bạc thao túng. Kết quả là Nhật Bản đã bị lôi cuốn vào trận chiến tranh Thái Bình Dương.
Thực ra, tội của Konoe đối với việc đưa Nhật Bản mạo hiểm vào trận chiến tranh thế giới trước, là vô cùng nặng.
Thứ nhất, trong đợt nội các thứ nhất (lập ra năm 1937), Nhật Bản đã khởi đầu cuộc chiến tranh Nhật-Hoa. Hơn thế nữa, năm 1938, nội các này đã tuyên bố: “Không thèm bắt tay với Tưởng Giới Thạch,” khiến làm mất cơ hội đình chiến. Dĩ nhiên, đây là vì Bộ Nội vụ, tức là nhà đương cục công an lúc đó, chứ không phải quân đội, đã phản đối với lý do rằng “Nếu thỏa hiệp với Tưởng Giới Thạch thì không thể kiềm chế được bạo động của những nhóm hữu khuynh,” song Konoe làm thủ tướng đã không thuyết phục nổi đám quan liêu Bộ Nội vụ, cũng không cất chức họ đi.
Trong thời kỳ nội các Konoe thứ hai, thì Nhật Bản đã kết bè với Ðức, Italia thành phe trục Nhật – Ðức – Italia. Thế rồi năm 1941, tức là thời nội các Konoe thứ ba, thì một mặt Nhật Bản tuyên bố “Phản đối việc khai chiến Nhật-Mỹ,” nhưng mặt khác mỗi ngày lại có những hành vi gây hấn như chiếm đóng Ðông Dương thuộc Pháp chẳng hạn. Thế rồi đến lúc không còn làm gì khác hơn được là phải nhảy vào vòng chiến, tức là tháng 10 năm 1941, thì nội các Konoe tổng từ chức, nhường bước cho nội các của Ðại tướng lục quân Tojo Hideki.
Ai cũng biết rằng chính nội các Tojo đã bắt đầu cuộc chiến tranh. Lại nữa, ai ai cũng biết rằng Tojo Hideki, Bộ trưởng Lục quân trong nội các Konoe thứ ba, chính là phe chủ chiến. Thế nhưng, làm cho quan hệ với Mỹ bị hỏng một cách tuyệt vọng khiến không còn con đường nào khác hơn là chiến tranh, chính là trách nhiệm của nội các của Konoe Fumimaro vậy.
Mặc dầu có trách nhiệm là đã gây nên sự kiện lớn lao như vậy, song sự ngưỡng mộ của dân chúng Nhật đối với Konoe vẫn không hề suy giảm. Năm 1945, Konoe tâu vua Nhật cho mình sang Liên-Xô cầu hòa, làm như chính mình không hề có trách nhiệm gì về cuộc chiến tranh cả. Ðây chính là thái độ thường có của các chính trị gia quý tộc Nhật Bản như được đại biểu bởi Hikaru Genji vậy.
Thời nay cũng thế, ở Nhật Bản người ta vẫn quan niệm rằng, người đứng trên chóp bu thì không nên để tâm đến những tiểu tiết, nên có thái độ phó mặc cho bề dưới muốn làm sao cho tốt thì làm. Ðây chính là hiện tượng đã khởi nguồn từ từng lớp quý tộc thời Heian, được Hikaru Genji đại diện vậy.
Tính cách vô lãnh đạo của “Chủ nghĩa tập thể”
Cùng thời với Konoe, người ta thấy có các nhà lãnh đạo ngoại quốc như Hitler, Churchill, Stalin, người nào cũng quan niệm trách nhiệm và quyền hạn của mình một cách rất tỉ mỉ.
Tổng thống Mỹ Roosevelt cũng vậy, khi bắt đầu vào cuộc chiến, ông đã tham khảo ý kiến của các chuyên gia để biết cần bao nhiêu chiến hạm, cần chế tạo loại xe tăng nào, v.v., và chính ông tự mình quyết định. Churchill cũng vậy, Mao Trạch Ðông cũng vậy.
Thời Ðại chiến thứ nhất, thủ tướng Anh Lloyd George, thủ tướng kiêm bộ trưởng Lục quân Pháp George Clémenceau nổi tiếng độc tài, đã chính mình đứng ra chỉ huy chiến trận. Hơn thế nữa, Lloyd George còn bất chấp sự phản đối của hải quân thời đó, đã cho thành lập đoàn tầu có hộ tống. Kết quả là phương án này đã thành công lớn lao, đã ém được sự tấn công bằng tàu ngầm của Ðức. Chịu nghe ý kiến của các chuyên gia, song chính mình hạ quyết định cuối cùng. Ðó là thái độ của các chính khách ngoại quốc.
Dù là chủ nghĩa quân phiệt, hay là chủ nghĩa dân chủ, thì người đứng ở chóp bu cũng phải nhận trách nhiệm ra quyết định. Ðó là bổn phận của kẻ lĩnh lương cao nhất vậy.
Nếu là một tập thể nhỏ của một xí nghiệp, thì điều này càng thấy quyết liệt hơn. Xí nghiệp ở Mỹ hay ở châu Âu thì nguyên tắc là kinh doanh độc tài bởi một cá nhân. Mọi việc đều phó mặc cho người có trách nhiệm kinh doanh tối cao. Kinh doanh có kết quả tốt, thì tổng giám đốc, mặc dầu cũng chỉ là người lĩnh lương, sẽ nhận được thù lao to lớn. Song, ngược lại, nếu kinh doanh không suôn sẻ, thì tức khắc bị giải nhiệm. Nói cách khác, chính mình nhận tất cả trách nhiệm mà hạ quyết định. Ðó là bổn phận của kẻ ngồi trên chóp bu vậy.
Tuy nhiên, ở Nhật thì người ta quan niệm rằng người ở địa vị cao không nên câu nệ chuyện nhỏ nhặt. “Chỗ đó, tụi bay liệu mà làm cho tốt!” hoặc “Khi nào phương án của văn phòng thảo xong, thì cho tao biết!”… Ðó mới đáng mặt kẻ làm lớn, kẻ “sang,” kẻ “ăn trên ngồi trốc.”
Sở dĩ có sự khác biệt như trên là vì, quý tộc Âu Mỹ vốn là võ tướng, lúc nào cũng sống trong tình trạng chiến tranh cướp giựt lãnh địa, trang ấp của nhau. Chứ quý tộc Heian của Nhật phải chăng chỉ là những “văn nhân” trong triều đình, kiểu Hikaru Genji?
Cái phong cách “người sang,” “người làm to” ngồi trên chóp bu thì không nên chi li, đã có ảnh hưởng trọng đại đối với sự hình thành xã hội ngày nay của Nhật Bản. Người ngồi trên không lãnh đạo gì cả, cho nên mới sinh ra hình thức quyết định tập thể của đông đảo người ở cấp dưới. “Chủ nghĩa tập thể” mới nghe thì hay lắm, song thật ra đó là hình thức thiếu lãnh đạo, mạnh nhóm nào nhóm ấy quyết định theo ý riêng, khiến dễ sinh ra tình trạng không còn biết trách nhiệm ở đâu nữa.
Thời kỳ tao loạn, chẳng hạn thời kỳ “chiến quốc,” thời kỳ “Duy tân,” thì cần có những người lãnh đạo mạnh. Nhưng thời bình thì tức khắc xuất hiện hiện tượng chối bỏ quyền lãnh đạo, khiến phát sinh ra cơ cấu “làm quyết định (decision making) theo chủ nghĩa tập thể.” Kể từ Hikaru Genji trở đi, đã sinh ra truyền thống theo đó nhân sĩ thượng lưu không nhúng tay vào thực vụ, người “thanh nhã” thì “không giám sát, không chỉ huy” người khác.
Ở thế kỷ XX, sau trận chiến tranh thế giới thứ hai, người ta cũng thấy xuất hiện nhiều nhà lãnh đạo có cá tính mãnh liệt trong giới chính trị cũng như trong giới kinh doanh. Họ nghĩ ra những chính sách mới, khởi đầu những doanh nghiệp mới, và có nhiều trường hợp đã thâu được thành công lớn.
Thế nhưng, ba chục năm sau chiến tranh, tức là từ khoảng giữa những năm 1970 trở đi, thì cả ở trong giới chính trị lẫn trong giới kinh doanh, không còn những người có tinh thần khởi nghiệp nữa, mà chỉ còn những người vô lãnh đạo thường được gọi là kiểu “người điều hợp” (coordinator). Cái gì cũng chủ trương “thôi thì mọi người cùng quyết định” là tốt.
Mọi người tụ tập nhau lại, “quyết định” phiên phiến theo bầu không khí, hay nói đúng ra là có “cảm giác” đã quyết định. Chẳng phải là có ai đã nói thế này, đã nói thế khác, cũng chẳng phải đã có quyết định đó từ đâu rồi, mà thật ra chỉ là “vì không có ai phản đối cả” hoặc “trong phiên họp đó, không có ai bàn ra tán vào gì cả, nên phương án do văn phòng đề ra đã được thông qua.”
“Lãnh đạo tập thể” và “quyết định theo tinh thần tập thể,” là hai việc khác nhau hoàn toàn. Lãnh đạo tập thể là một tổ chức rõ rệt gồm mấy người hoặc mấy chục người (chẳng hạn hội đồng nội các, hội đồng quản trị công ty) làm quyết định, rồi chỉ thị xuống cho cấp dưới thi hành. Còn quyết định theo tinh thần tập thể, chẳng qua là sự thiếu sót hẳn một cơ cấu có quyền làm quyết định, cho nên việc quyết định đã phải dựa vào bầu không khí của toàn thể tổ chức hoặc vào cảm tính của toàn thể thành viên của tổ chức. Do đó, những người làm công tác “tạo bầu không khí” phải họp thường xuyên, “mặt đối mặt” để trao đổi “Tình huống lúc này là thế nào?” “Bầu không khí lúc này là thế nào?”
“Phòng xalông” của Hikaru Genji mô tả trong “Truyện Genji” chính là để tạo ra cái bầu không khí như vậy. Ðủ hạng người ra vào đó, ngâm thơ, ngắm trăng,…và từ đó đã tạo ra cái bầu không khí chính trị của Nhật Bản vậy.
Hình thức “phòng xalông” như trên, ngày nay cũng được giới chính trị và giới kinh doanh bắt chước. Xí nghiệp bỏ ra kinh phí rất lớn cho việc giao tế, du lịch giao thông, cơ sở phúc lợi.
Theo thống kê thuế vụ năm 1994, thì giao tế phí tổng cộng của toàn thể xí nghiệp tư doanh Nhật Bản là 5.487 tỷ đồng Yen. Sau khi “bong bóng kinh tế” bị xẹp, người ta đã thắt lưng buộc bụng nên đã giảm bớt kinh phí như vậy được 870 tỷ đồng Yen so với năm 1992. Song, so với Mỹ, kinh phí như vậy vẫn nhiều hơn gấp 3 lần, và so với Ðức thì nhiều hơn gấp gần 16 lần. Tính trên cơ sở GNP[18], thì giao tế phí của Nhật Bản nhiều gấp 5 lần Mỹ, 6 lần Ðức. Ðây mới chỉ là giao tế phí “dân thết đãi dân,” chứ những hình thức giao tế phí khác, như giao tế phí “quan tiếp đãi quan” cũng nhiều vô kể.
Bảo rằng “giao tế phí” thì cần thiết cho kinh doanh, nhưng thật ra đây chỉ là tiêu dùng cho mục đích gặp mặt nhau để trao đổi thông tin hoặc ở trong cùng một xí nghiệp hoặc ở trong cùng một gia đình xí nghiệp. Nghĩa là, muốn cho bầu không khí được hình thành mà chẳng phải vì ai đã muốn như vậy, thì người ta phải thường xuyên gặp mặt nhau, dò dẫm tìm hiểu lẫn nhau bằng cách trao đổi thông tin, sao cho đến một lúc nào đó thì cái ý chí của chính mình cũng hướng theo cùng chiều. Cái đó mới quan trọng.
Kinh phí giao thông, du lịch, để cho mọi người có dịp gặp gỡ nhau trao đổi thông tin như thế này, cũng vô cùng lớn. Cũng năm 1994, kinh phí cho du lịch, giao thông như vậy của Nhật Bản, là 14 ngàn tỷ đồng Yen. Kinh phí này đem so với Mỹ hay Liên bang Âu (EU) thì lớn hơn rất nhiều. Hơn thế nữa, các xí nghiệp tư Nhật Bản còn bỏ ra rất nhiều tiền để xây dựng cơ sở, thiết bị phúc lợi, nhằm cộng đồng hóa tập thể nhân viên.
Chẳng riêng gì ở các xí nghiệp tư nhân. Ngay cả trong giới chính trị gia ở “xóm” Nagata[19], thậm chí trong văn đàn, họa đàn, thi đàn, ca đàn,…người ta cũng thấy hình thành “làng,” nghĩa là sự xây dựng quan hệ người với người trong khuôn khổ xóm làng.
Kết quả là, chẳng phải những người vốn dĩ có năng lực làm việc, mà chính những người khéo xã giao, hay săn sóc bạn bè, không nói phật lòng người khác, nghĩa là những người kiểu Hikaru Genji, là những người sẽ được xung quanh đôn đẩy lên địa vị cao. Hiện tượng như vậy càng thấy nhiều khi thế gian bước vào giai đoạn ổn định.
Cái truyền thống về loại người không quyết định gì cả lại được ở địa vị cao sang, nghĩa là loại người tuy không có năng lực nhưng “thanh nhã” này, đã có từ thời quý tộc Heian, tức là từ thế kỷ thứ X, thời Hikaru Genji sinh sống. Hơn thế nữa, trong lúc quan tể tướng Hikaru Genji chỉ miệt mài với yêu đương và thơ phú, thì thế gian đã xoay vần đổi thay.
Miền đất phương đông thì Taira no Masakado làm phản rồi tự diệt, mặt biển phía tây thì Fujiwara Sumitomo nổi loạn rồi bị Taira diệt. Ấy thế mà bọn võ sĩ samurai chẳng lấy thế làm kiêu ngạo. Rồi xuất hiện thời đại thái bình thịnh trị, thời đại hoàng kim của giới quý tộc Heian, tức là thời đại mà Murasaki Shikibu, tác giả “Truyện Genji,” sinh sống.
Cái ký ức như trên còn có ảnh hưởng lớn tới tính tình người Nhật, tới sự khẳng định kiểu mẫu chính trị gia Hikaru Genji.
Chẳng hạn, ở thời đại mạc phủ Tokugawa thì vua Nhật chỉ coi vấn đề văn hóa, tế lễ thần đạo, còn mạc chúa Tokugawa thì nắm thực quyền chính trị. Song, chính mạc chúa Tokugawa như vậy cũng không được nói xen vào những chuyện tỉ mỉ. Thí dụ, vị chúa Tokugawa đời thứ tư, tên là Ietsuna thường được gọi với hỗn danh “ngài làm thế đi.” Ông này chỉ nói “làm thế đi” mỗi khi được quần thần trình tấu việc nước. Các vị chúa sau ông, trừ vị chúa thứ năm Tsunayoshi và chúa thứ tám Yoshimune, đều là chúa “làm thế đi” như vậy cả. Thậm chí, các phiên chúa (lãnh chúa) cũng thuộc loại này. Nghĩa là, khi thiên hạ được thái bình thì cái “tính di truyền cách đời” từ thời Heian đã lại xuất hiện ra vậy.
Nhìn qua các ví dụ ngoại quốc, ta thấy vua chúa, hoàng đế nói chung đều thuộc loại độc tài cả.
Ngay ở Trung Hoa bên cạnh đây, cũng thấy xuất hiện đủ loại hoàng đế. Nếu có người “kỳ cục” trật đường ray, thì cũng có người “ngu,” “người bệnh,” “con nít,” v.v.. Song, tất cả các hoàng đế Trung Hoa đều là người có quyền hành tuyệt đối cả. Nếu còn nhỏ hoặc bị bệnh, thì có nhiếp chính phụ giúp. Trường hợp ấu đế thì nhiều khi bà mẫu hậu đứng làm nhiếp chính, nhưng cũng có khi quyền bính bị các ông cậu hay anh em họ chiếm đoạt.
Tuy nhiên, cho dù là chính vị hoàng đế, hay vị nhiếp chính đứng cầm quyền, thì người ở địa vị quyền lực tối cao đó, cũng phát huy quyền chỉ huy, quyền lãnh đạo ghê gớm. Quan đại thần có thực lực mấy đi nữa, cũng không bì được với hoàng đế hoặc nhiếp chính. Khi hoàng đế trưởng thành, nắm lấy thực quyền, thì lập tức nền chính trị của quan nhiếp chính bị thay đổi, các quan đại thần có thực quyền lớn cũng dễ dàng bị bay cổ như chơi.
Sự khác nhau lớn giữa “quý phái” và “thanh nhã”
Ðiều kể trên còn có nghĩa rằng quan niệm “thanh nhã” của người Nhật và của ngoại quốc khác nhau xa. Ðây là cái ảnh hưởng thứ hai do Hikaru Genji, tức là tầng lớp quý tộc thời đại Heian, để lại.
Ở Nhật Bản, khi nói “người thanh nhã” chính là chỉ Hikaru Genji. Ðây tức là nói người không phát huy quyền lãnh đạo, đánh nhau yếu và thể lực cũng yếu, không có sức chịu đựng dẻo dai để sống còn trong cảnh hoang dã, lúc nào cũng chỉ miệt mài trong thế giới thẩm mỹ, thi ca, hiểu rõ phép xã giao, không làm phật lòng người khác. Nói cách khác, đây là loại người “không đủ mặn” đồng thời cũng “không đủ mỡ màng.”
Nói chung, trong phim truyện hay trong tiểu thuyết, “người thanh nhã” như công khanh hoặc công tử đài các, thường được mô tả là người ít hoạt bát, chẳng có gì hấp dẫn cả. Người quý tộc thanh nhã mà lại có võ nghệ siêu quần, như vị chúa thứ 13 của dòng chúa Ashikaga, tên là Yoshiteru, thì không phải là không có, nhưng người ta coi như vậy là không thích hợp! Thà ông ta miệt mài với thơ phú, đá cầu[20],.. thì phù hợp hơn. Cái khái niệm “thanh nhã” này là nét độc đáo của Nhật Bản.
Ở xã hội quý tộc châu Âu, thì “thanh nhã,” nghĩa là “quý phái,” phải hội đủ điều kiện tiền đề là có “sức chịu đựng và tính cẩn thận.” Trong hai đức tình này thì “sức chịu đựng” quan trọng.
Thí dụ, bộ đội bị lạc trong rừng sâu. Lương thực đã hết mà mãnh thú lại xuất hiện. Lúc đó, thử hỏi ai sẽ là người sống sót? Ở Nhật thì trước hết người ta nghĩ rằng binh sĩ xuất thân từ nông dân hay giới lao động, sẽ sống sót. Chứ người quý phái “thanh nhã” thì làm sao sống sót được trong rừng sâu một năm, hai năm? Ðó là thường thức ở Nhật Bản.
Thế nhưng, ở Anh quốc, người ta hẳn sẽ nói: “Hắn ta sẽ sống sót. Vì hắn là quý tộc. Cái gì chứ sống trong rừng là chuyện bình thường! ” Ở Pháp cũng vậy, ở Ðức cũng vậy, câu trả lời cũng sẽ là như vậy.
Quý tộc châu Âu không những là con cháu những chiến sĩ đã thắng trận, chính bản thân họ cũng đang chiến đấu để bảo tồn lãnh địa của mình.
Vì thế, quý tộc không những đánh nhau khỏe, thể hình cũng to lớn. Tự mình quyết định mọi việc, tự ý chí của mình thích ứng với hoàn cảnh. Nóng, lạnh cũng chịu đựng được. Người quý tộc mùa hạ cũng ăn mặc chỉnh tề, mùa đông không mặc dầy xù mất vẻ thẩm mỹ. Ðó chính là vì họ có sức chịu đựng, chịu đựng được nóng cũng như lạnh. Bị bệnh cũng không rên rỉ đau đớn. Khi có chiến tranh, thì tiên phong tự nguyện đầu quân ra chiến trường. Có can đảm không sợ chết. Ðó mới là điều kiện phải có của người “quý phái,” tức là người “thanh nhã” châu Âu.
Ðiều kiện thứ hai của quý tộc châu Âu là “tính cẩn thận.” Quý tộc muốn giữ được gia thế và tài sản của mình, thì không thể không “cẩn thận” được. Cách ăn mặc chỉnh tề, không xuề xòa, cách ăn nói khéo léo chính là biểu hiện của “tính cẩn thận” này vậy.
Một mặt thì mạnh dạn, dũng cảm, có sức chịu đựng, mặt khác lại phải có tính cẩn thận, mới nghe tưởng như mâu thuẫn, song đó chính là điều kiện để làm “quý tộc” châu Âu vậy.
Tóm lại, các kỵ sĩ mặc giáp trụ cưỡi ngựa chiến đấu thời xưa, thời nay sống sót làm thành những con người quý tộc điển hình của châu Âu. Có sức chịu đựng, có tính cẩn thận chính là những điều kiện tất yếu của khái niệm người “quý phái” vậy.
Còn một từ nữa để chỉ “thanh nhã.” Ðó là “gentle” của tiếng Anh (hoặc “gentil” của tiếng Pháp) mà tiếng Nhật dịch là “có vẻ, có dáng thân sĩ.” “Thân sĩ” là từ dùng để chỉ người tiểu tư sản. Vậy nếu coi “noble” là “thanh nhã quý phái” thì “gentle” là “thanh nhã thứ dân,” “thanh nhã tiểu tư sản.”
Gentleman (gentilhomme) là từ chỉ những người từ tốn, ít khi biểu lộ tình cảm, bị nói sao cũng bình tĩnh đối đáp, thế mà lại không a dua theo ý kiến người khác, biết tâm đắc cái trung dung. Quý tộc Heian của Nhật Bản thì khác hẳn loại người gentleman này. Ðối với gentleman thì quan trọng nhất là thường thức và trung dung, rồi đến ý chí cứng cỏi.
“Thanh nhã kiểu Nhật” không còn đắc dụng nữa
Xem như trên, ta thấy cái “thanh nhã” Nhật Bản khác hẳn cái “thanh nhã” Âu Mỹ. Còn cái “thanh nhã” của châu Á, thí dụ cái “thanh nhã” của Trung Hoa thì ra sao? Cái “thanh nhã” Trung Hoa thì hoàn toàn chú trọng vào sự hiểu biết (chủ tri chủ nghĩa), lấy hiểu biết làm điều kiện lớn nhất.
Bên Trung Hoa, sau khi nhà Ðường suy, trải qua thời kỳ hỗn loạn gọi là thời Ngũ đại, rồi nhà Tống bắt đầu chỉ một thời gian ngắn sau thời Hikaru Genji hoạt động chính trị. Ở thời này, bên Trung Hoa, hình thức khoa cử để tuyển chọn quan lại cao cấp đã được tổ chức nghiêm minh và đã trở thành trọng yếu. Chế độ khoa cử thật ra đã bắt đầu từ thời Tùy sơ, song cho tới hết thời Ðường, thì nhiều người đỗ đạt là nhờ con ông cháu cha. Nhưng kể từ đời Tống trở đi, khoa cử đã được tổ chức nghiêm minh, và đỗ đạt khoa bảng đã thành điều kiện thứ nhất để được coi là “thanh nhã,” để gia nhập giới thượng lưu.
Nghĩa là, muốn trở thành con người “thượng lưu” thì điều kiện thứ nhất là phải có đủ hiểu biết để đỗ đạt khoa bảng.
Ở Trung Hoa thì từ xưa, thi sĩ, hoạ sĩ cũng nhiều người xuất thân từ quan trường khoa bảng. Những người sáng tạo ra học vấn hoặc kỹ thuật mới, cũng phần lớn xuất thân từ quan trường. Như vậy, quả thật quan trường là nơi tụ tập đủ loại nhân tài. Thậm chí, “không thả rong nhân tài nơi dã ngoại” được coi là lý tưởng của quốc gia, nghĩa là quốc gia dùng tất cả người tài làm quan, không để ai chơi không. Ðó là lý tưởng của chính trị.
Do đó, có tri thức đủ để đỗ đạt đã là điều kiện tất yếu để trở thành “thanh nhã.” Nhất là từ thời Minh trở đi, “Chu Tử học” coi trọng tri thức làm cho “chủ nghĩa chủ tri (chủ nghĩa lấy biết làm chủ)” trở thành phổ biến, thì Trung Hoa đã trở thành quốc gia mà những trí thức hiểu biết nhiều được tôn trọng lắm lắm.
Ở Nhật, cứ xem câu nói “trí thức mặt trắng bệch” đủ thấy là người ta có phần nào khinh miệt người trí thức, người đọc sách. Quan niệm tương tự như vậy cũng thấy có ở Mỹ, Anh. Ở Mỹ thì đàn ông võ biền được ưa chung, trong khi đó những người “đầu trứng,” tức là đầu nhét đầy tri thức như quả trứng, thì lại không được tôn trọng. Tập quán tôn trọng người trí thức thì trước nhất là Trung Hoa, thứ đến là Pháp[21].
Ở Trung Hoa, nơi mà những môn học khoa cử như lịch sử, văn sách, được coi trọng, thì dù không muốn làm quan nhưng để chứng tỏ mình cũng là thành phần “thanh nhã” thượng lưu, người ta phải làm sao đậu được khoa thi hương. Do đó, có nhiều người đậu hương thí, lấy được mảnh bằng để chứng tỏ đã có cái hiểu biết của người thượng lưu rồi, nhưng không ra làm quan, chỉ ở nhà làm địa chủ hay nối nghiệp ông cha, vẫn được tôn kính gọi là ngài “cử nhân.” Trí thức Trung Hoa có học vấn, thường khinh bỉ việc lao động chân tay và nghề võ biền[22], song phát huy năng lực lãnh đạo. Cái trật tự trên dưới duy trì được cũng là nhờ vậy.
Quý tộc Heian của Nhật Bản cũng biết làm thơ, cũng thông văn sách chữ Hán, song với họ, có tri thức, có học vấn hay không, không phải là tiêu chuẩn ấn định sự “thanh nhã.” Với họ, ngâm vịnh thơ phú chỉ là một phần trong ý thức thẩm mỹ. Hikaru Genji là người đàn ông đẹp trai, “thanh nhã,” được nữ giới hâm mộ và làm tể tướng. Chàng được người ta vô cùng vì nể, song chẳng phải vì chàng biết làm thơ hay, cũng chằng phải vì chàng có học thức đủ viết sách chú giải Luận ngữ.
Nhật Bản kể từ khi gửi sứ sang nhà Tùy, đã học hỏi văn hóa Trung Hoa rất nhiều, đã mô phỏng chế độ chính trị Trung Hoa, song riêng về khái niệm “thanh nhã” thì Nhật Bản khác xa với Trung Hoa. Ðây có lẽ là bởi vì từ Ðường mạt sang Tống sơ, tức là vào thời kỳ biến chuyển của nền văn hóa Trung Hoa, thì Nhật Bản đã dẹp bỏ việc gửi sứ sang Trung Hoa, và thôi không du nhập văn hóa mới của Trung Hoa nữa chăng?
Ngày nay, 50 năm sau chiến tranh thế giới thứ hai, chính phủ cũng như xí nghiệp tư nhân đều bước vào giai đoạn hướng tới ổn định. Vì thế, càng ngày càng thấy nhiều người “thanh nhã,” “tư cách mười điểm, tài năng zero điểm” kiểu Hikaru Genji, giữ địa vị chóp bu.
Ðiều này cũng thấy thể hiện cả trong giáo dục con em của Nhật Bản nữa. Giai cấp thượng lưu châu Âu thì trước nhất dạy con “tính chịu đựng” và “tính cẩn thận,” tức là giáo dục con em thành người cương cường. Nhưng nhà giầu hoặc người có địa vị xã hội ở Nhật thì nuôi con sao cho thành người “thanh nhã.” Vì vậy, họ thường nuông chiều con cái.
Ở Nhật Bản, “đời thứ hai” đang thịnh hành lúc này. Trong giới đại biểu quốc hội, thày thuốc thì đã đành, ngay trong giới nhà kinh doanh, nghệ sĩ nghệ nhân, thậm chí người chơi thể thao cũng thấy xuất hiện nhiều người “đời thứ hai.” Bầu không khí chung là nhìn nhận những người thuộc đời thứ hai này, bởi vì xã hội Nhật Bản đang bước vào thời kỳ ổn định chỉ cần những người ngồi ở chóp bu không làm gì cả song giữ được vẻ “thanh nhã” Nhật Bản là đủ.
Tuy nhiên, đời thứ hai có nhiều, chứ sự giầu sang kéo dài tới ba đời là chuyện hiếm có ở Nhật Bản. Bởi vì, trong khoảng thời gian ba đời, sáu mươi năm, thế nào cũng có lúc biến động sôi nổi, khiến người “thanh nhã” kiểu Nhật Bản dễ bị đè bẹp. Ở điểm này, Nhật Bản là nước mà giai cấp thượng lưu luôn luôn thất bại trong vấn đề giáo dục con em.
Như trên, ngược dòng thời gian tìm đặc điểm ngày nay còn thông dụng của xã hội Nhật Bản, người ta tất sẽ đụng phải cái lối sống của quý tộc thời Heian, cái nội dung “thanh nhã” của giới quý tộc này. Truyện Genji miêu tả Hikaru Genji, phải chăng đã điển hình kể lại cái đó cho tới ngày nay?
Một mơ ước của người Nhật ngày nay vẫn là lối sống của Hikaru Genji, quý tộc thời Heian. Tuy nhiên, ở thời đại mà sự quốc tế hóa ngày càng tiến mạnh, đòi hỏi một sự lãnh đạo mạnh mẽ từ nay trở đi, thì liệu mẫu người Hikaru Genji có thể đáp ứng được chăng?
Nói cách khác, đã đến lúc phải xem lại cái “thanh nhã” kiểu Nhật Bản này.
[1] Truyện Genji, tức là Genji Monogatari, do tác giả Murasaki Shikibu viết vào khoảng gần giữa thời Heian của Nhật Bản (vào khoảng thế kỷ thứ X), là cuốn tiểu thuyết đầu tiên trên thế giới, đồng thời là tiểu thuyết dài nhất trên thế giới từ trước tới nay, dài hơn gấp hai lần truyện Tam Quốc Chí diễn nghĩa.
[2] Taisho, Ðại Chính. Niên hiệu thời vua Taisho, từ 30/7/1912 tới 25/12/1926.
[3] Showa, Chiêu Hòa. Niên hiệu thời vua Showa, từ 25/12/1926 tới 7/1/1989.
[4] Thuyết coi dòng họ vua Nhật Bản là con cháu thần thánh từ trên trời xuống!
[5] Gengi sáng lóng lánh.
[6] Hoằng Huy Ðiện là cung điện của các bà thái hậu, do đó cũng là danh xưng của các bà.
[7] Naidaijin: một chức quan kế bậc tam công.
[8] Dajodaijin: quan chức tối cao trong triều đình Nhật cho tới thời vua Minh Trị, tương đương với chức tướng quốc.
[9] Suzaku In, tên hiệu của vua Suzaku sau khi nhường ngôi cho vua Murakami để làm thái thượng hoàng.
[10] Bushi, thường nói nôm na là “samurai.”
[11] Sadaijin: tương đương với tả thừa tướng.
[12] Udaijin: tương đương với hữu thừa tướng.
[13] Dainagon: tương đương với á tướng.
[14] Shonagon: tương đương với thượng thư lang.
[15] Gen Pei To Kitsu, tức là Minamoto, Taira, Fujiwara và Tachibana.
[16] Quốc Phân Tự: Kokubunji, một hình thức chùa “quốc doanh” làm nơi nương tựa tinh thần cho nhân dân.
[17] Ngày 26/2/1936, một nhóm sĩ quan lục quân trẻ, kéo khoảng 1.500 lính đánh chiếm phủ thủ tướng, giết vài bộ trường, làm đảo chính. Ba ngày sau thì vụ này dẹp xong không đổ thêm máu nữa.
[18] GNP (Gross National Product): tổng sản phẩm (lượng) quốc dân.
[19] Xóm Nagata, Nagata-cho, là khu tụ tập các cơ quan chính phủ trung ương Nhật Bản. Nói Nagata-cho là nói trung tâm chính trị của Nhật Bản.
[20] Bả n do NXB Chính Trị Quốc Gia ấn hành viết “đá cầu lông,” nay sửa lại là “đá cầ u.”
[21] Việt Nam ta chịu ảnh hưởng lớn của cả hai nước này, nên đáng đứng hàng thứ ba chăng.
[22] Ca dao Việt Nam có câu: “Quan văn tam phẩm đã sang, Quan võ nhất phẩm còn mang gươm hầu!” cũng là thuộc phạm trù này chăng?